
Theo dự thảo, điều kiện công bố sản phẩm mỹ phẩm được đề xuất như sau:
- Mỹ phẩm trước khi sản xuất, lưu thông tại Việt Nam phải thực hiện công bố theo quy định, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 30.
- Sản phẩm mỹ phẩm được phân loại theo quy định tại Điều 4 Nghị định này.
- Tổ chức, cá nhân đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp được đứng tên trong hồ sơ công bố đưa sản phẩm mỹ phẩm ra thị trường.
Bên cạnh đó, dự thảo cũng quy định về hình thức công bố sản phẩm mỹ phẩm gồm:
- Công bố sản phẩm mỹ phẩm;
- Thay đổi, bổ sung thông tin trên Phiếu công bố sản phẩm mỹ phẩm đã được công bố thuộc một trong các trường hợp sau:
Khi có thay đổi các nội dung phải công bố mới theo quy định tại Phụ lục số 04 thì phải tiến hành công bố mới theo quy định;
Khi thay đổi, bổ sung nội dung không phải công bố mới theo quy định tại Phụ lục số 04 thì phải thực hiện thay đổi, bổ sung trong vòng 01 tháng.
Cấu trúc và mã số trên Phiếu công bố sản phẩm mỹ phẩm theo mẫu quy định tại Phụ lục số 05 ban hành kèm theo Nghị định này.
Cũng theo dự thảo, sản phẩm mỹ phẩm được công bố mỹ phẩm có hiệu lực 3 năm kể từ ngày công bố.
Về thẩm quyền công bố sản phẩm mỹ phẩm, dự thảo đề xuất như sau:
- Bộ Y tế tiếp nhận hồ sơ và công bố sản phẩm mỹ phẩm đối với mỹ phẩm sản xuất ở nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam.
- UBND cấp tỉnh tiếp nhận hồ sơ và công bố sản phẩm mỹ phẩm đối với mỹ phẩm sản xuất tại cơ sở sản xuất trên địa bàn quản lý, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này.