Sửa đổi quy định về đăng ký, cung cấp thông tin về hợp đồng
Tại Thông tư số 08/2018/TT-BTP được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 06/2020/TT-BTP, Bộ Tư pháp quy định về đăng ký hợp đồng như sau:
Trường hợp cá nhân, tổ chức có yêu cầu đăng ký nhằm công khai hoá thông tin thì Trung tâm Đăng ký thực hiện việc đăng ký hợp đồng, đăng ký thay đổi nội dung hợp đồng đã đăng ký, sửa chữa sai sót, xoá đăng ký đối với các hợp đồng sau đây (trừ hợp đồng thuê mua tàu bay dân dụng theo quy định của pháp luật về hàng không, hợp đồng cho thuê tài chính đối với tàu bay theo quy định của pháp luật về cho thuê tài chính, hợp đồng thuê mua tàu biển theo quy định của pháp luật về hàng hải, hợp đồng cho thuê tài chính đối với tàu biển mà không thuộc trường hợp nêu tại khoản 3 Điều 39 của Thông tư số 30/2015/TT-NHNN ngày 25/12/2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định việc cấp giấy phép, tổ chức và hoạt động của tổ chức tín dụng phi ngân hàng, hợp đồng liên quan đến quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai, nhà ở):
1- Hợp đồng thuê tài sản có thời hạn từ một năm trở lên hoặc hợp đồng có thời hạn thuê tài sản dưới một năm, nhưng các bên giao kết hợp đồng thỏa thuận về việc gia hạn và tổng thời hạn thuê (bao gồm cả thời hạn gia hạn) từ một năm trở lên; hợp đồng ký gửi hàng hoá.
2- Hợp đồng cho thuê tài chính theo quy định của pháp luật về cho thuê tài chính.
3- Hợp đồng chuyển giao quyền đòi nợ, khoản phải thu, quyền yêu cầu thanh toán khác bao gồm quyền đòi nợ, khoản phải thu, quyền yêu cầu thanh toán khác hiện có hoặc hình thành trong tương lai.
Bộ Tư pháp nêu rõ, việc đăng ký nêu trên không làm phát sinh hiệu lực của hợp đồng. Người yêu cầu đăng ký chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính hợp pháp và tính chính xác của các thông tin kê khai trong Phiếu yêu cầu đăng ký.
Tại dự thảo, Bộ Tư pháp đề xuất sửa đổi quy định trên, trong đó, Bộ đề xuất bổ sung quy định cung cấp thông tin về hợp đồng.
Cụ thể, Bộ Tư pháp đề xuất quy định về đăng ký, cung cấp thông tin về hợp đồng như sau:
Trường hợp các bên trong hợp đồng cho thuê tài chính; hợp đồng thuê tài sản là động sản không phải là tàu bay, tàu biển; hợp đồng ký gửi hàng hóa; hợp đồng chuyển giao quyền đòi nợ, khoản phải thu hoặc chuyển giao quyền yêu cầu thanh toán khác (hợp đồng chuyển giao quyền đòi nợ) có thỏa thuận về việc đăng ký để công khai thông tin trong hợp đồng và có yêu cầu đăng ký thì Trung tâm đăng ký thực hiện việc đăng ký hợp đồng theo yêu cầu và theo nội dung thỏa thuận trong hợp đồng.
Việc đăng ký quy định tại khoản này bao gồm cả đăng ký thay đổi nội dung đã được đăng ký (đăng ký thay đổi), xóa đăng ký nội dung đã được đăng ký (xóa đăng ký).
Việc đăng ký quy định tại khoản này là để thông báo, công khai thỏa thuận trong hợp đồng; không phải là căn cứ xác định hiệu lực của hợp đồng; không phải là căn cứ xác định hiệu lực đối kháng của thỏa thuận trong hợp đồng với người thứ ba.
Trường hợp có yêu cầu cung cấp thông tin về hợp đồng của tổ chức, cá nhân thì Trung tâm đăng ký thực hiện việc cung cấp thông tin đối với hợp đồng đã được đăng ký.
Trường hợp cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền có yêu cầu cung cấp thông tin về hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật thì Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thực hiện việc cung cấp thông tin theo nhiệm vụ, quyền hạn về quản lý nhà nước.
Dự thảo nêu rõ, căn cứ vào thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ theo quy định, Trung tâm đăng ký quy định giá dịch vụ đăng ký, giá dịch vụ cung cấp thông tin áp dụng cho tổ chức, cá nhân có yêu cầu về đăng ký, về cung cấp thông tin nêu trên theo quy định của pháp luật về giá, pháp luật khác có liên quan.
Người yêu cầu đăng ký, người yêu cầu cung cấp thông tin; Trung tâm đăng ký; tổ chức, cá nhân tham gia hoặc có liên quan đến hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin về hợp đồng vận dụng quy định liên quan của pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm áp dụng tại Trung tâm đăng ký để thực hiện các nội dung trong đăng ký, cung cấp thông tin về hợp đồng.
Thêm quy định về chữ ký, con dấu trong đăng ký hợp đồng
Tại dự thảo, Bộ Tư pháp đề xuất bổ sung thêm 1 Điều mới (Điều 5b) quy định về chữ ký, con dấu trong đăng ký hợp đồng.
Cụ thể, theo dự thảo, Phiếu yêu cầu đăng ký phải có chữ ký của người có thẩm quyền (chữ ký), con dấu (nếu có) của bên hoặc các bên thuê tài chính, bên hoặc các bên thuê tài sản, bên hoặc các bên nhận ký gửi hàng hóa, bên hoặc các bên chuyển giao quyền đòi nợ (bên có nghĩa vụ) và bên hoặc các bên cho thuê tài chính, bên hoặc các bên cho thuê tài sản, bên hoặc các bên ký gửi hàng hóa, bên hoặc các bên nhận chuyển giao quyền đòi nợ (bên có quyền), trừ trường hợp hợp đồng hoặc văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng được công chứng, chứng thực hoặc các bên có văn bản thể hiện nội dung chỉ định, ủy quyền trong đăng ký thì Phiếu yêu cầu đăng ký chỉ cần có chữ ký, con dấu (nếu có) của bên có quyền hoặc của bên có nghĩa vụ hoặc của người được chỉ định, được ủy quyền.
Trường hợp hồ sơ đăng ký được nộp qua hệ thống đăng ký trực tuyến thì chữ ký, con dấu quy định trên có thể được thay thế bằng chữ ký điện tử, con dấu điện tử. Trường hợp này, người yêu cầu đăng ký chịu trách nhiệm về việc sử dụng chữ ký điện tử, con dấu điện tử theo quy định của Luật Giao dịch điện tử và quy định của pháp luật khác có liên quan.
Chữ ký điện tử, con dấu điện tử có giá trị pháp lý như chữ ký, con dấu được sử dụng trên văn bản giấy.
Phiếu yêu cầu đăng ký hợp lệ là phiếu được kê khai đầy đủ và đúng các nội dung phải kê khai theo mẫu tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 99/2022/NĐ-CP
Theo Báo Chính phủ