Sau 3 ngày mở phiên giám đốc thẩm vụ án sát hại 2 nữ nhân viên bưu điện Cầu Voi vào năm 2008, chiều ngày (08/5), Hội đồng Thẩm phán của TAND Tối cao đã ra phán quyết đối với vụ án Hồ Duy Hải (35 tuổi, trú tại huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An).
Thay mặt 17 người trong Hội đồng Thẩm phán (HĐPT), thẩm phán Nguyễn Trí Tuệ - Phó Chánh án TAND Tối cao - tuyên án. Án giám đốc thẩm đã phân tích từng kháng nghị của Viện trưởng Viện KSND Tối cao trong vụ Hồ Duy Hải và quyết định bác bỏ kháng nghị này, giữ nguyên án tử hình đã tuyên.
Trước đó, Hồ Duy Hải bị TAND tỉnh Long An tuyên án tử hình về các tội Giết người, Cướp tài sản. Cho rằng vụ án có nhiều tình tiết chưa được làm sáng tỏ, VKSND Tối cao ra quyết định kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án sơ thẩm và phúc thẩm, đề nghị Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao mở phiên giám đốc thẩm để xem xét lại vụ án này.
Quá trình mở phiên giám đốc thẩm vụ án, cơ quan công tố vẫn bảo lưu quan điểm kháng nghị, đồng thời đề nghị TAND Tối cao hủy án điều tra lại theo đúng quy định của pháp luật. Trong quá trình tranh luận, VKS nhấn mạnh nội dung kháng nghị, không cho rằng Hồ Duy Hải bị kết án oan nhưng quá trình điều tra có quá nhiều sai sót về tố tụng.
Sau khi lắng nghe quan điểm của VKS, căn cứ vào diễn biến phiên giám đốc thẩm, các thành viên Hội đồng Thẩm phán đã tiến hành đánh giá chứng cứ, những vi phạm về tố tụng, những mâu thuẫn trong lời khai.
Cụ thể, thứ nhất: kháng nghị cho rằng việc kết luận việc Hải có mặt ở hiện trường là không có căn cứ. Tuy nhiên, HĐTP thấy căn cứ vào lời khai của một số nhân chứng và của Hải, có việc chiếc xe máy Dream của Hải dựng ở bưu điện; các nhân chứng cũng nhận dạng được tóc, áo của Hải.
Lời khai của Hải cũng phù hợp với người bán hoa quả tên Ngân về việc Hải đưa tiền cho chị Nguyễn Thị Thu Vân (một trong 2 nạn nhân) đi mua trái cây.
Kết quả khám nghiệm hiện trường có 2 túi trái cây, phù hợp với lời khai của Hải và của chị Ngân. Lời khai của Hải phù hợp với vị trí, các đồ vật có mặt trong phòng, với những đặc điểm, màu sắc chỉ có thể có mặt ở hiện trường mới có thể mô tả chính xác. Do đó, HĐPT cho rằng đủ có chứng cứ kết luận Hải có mặt tại hiện trường và kháng nghị là không đúng.
Thứ 2: kháng nghị cho rằng Hải không thể có mặt ở Bưu điện Cầu Voi trước 19h39 ngày xảy ra vụ án. HĐTP nêu viện dẫn việc nhân chứng Đinh Vũ Thường có mặt ở bưu điện trước thời điểm này; thời gian Hải ở quán cầm đồ, gặp một số người khác... rồi đến bưu điện.
HĐTP kết luận Hồ Duy Hải có mặt tại hiện trường lúc 19h34 là có căn cứ.
Thứ 3: kháng nghị cho rằng nhiều chứng cứ chưa được thu thập, đánh giá, lời khai của bị cáo còn nhiều mâu thuẫn… HĐTP nhận định, lời khai có nhiều mâu thuẫn nhưng phù hợp với diễn biến tâm lý tội phạm và chứng tỏ cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm, phúc thẩm không mớm cung, bức cung bị cáo. Có những tình tiết rất nhỏ, chỉ người trực tiếp thực hiện hành vi mới biết nhưng Hải vẫn khai ra được. Vì vậy, không cần hủy án để làm rõ các mâu thuẫn này.
Thứ 4: kháng nghị cho thấy có nhiều mâu thuẫn lớn trong thu thập chứng cứ, như đêm đó Bưu điện Cầu Voi có nước hay không…
HĐTP cho rằng, lời khai của các nhân chứng phù hợp với lời khai của Hải về việc bưu điện có nước vì có giếng. Cho rằng mâu thuẫn giữa lời khai của Hải về đập đầu nạn nhân vào lavabo nhưng không thấy dấu vết trên lavabo là nhận định trái với nguyên tắc chứng minh tội phạm. Lời khai đó sai như chính Hải đã khai lại sau này, nội dung không đập đầu chị Hồng vào lavabo. Biên bản khám nghiệm hiện trường và bản án cũng không khẳng định Hải đập đầu chị Hồng vào lavabo nên không cần thiết phải điều tra lại.
Thứ 5: lời khai của Hải mâu thuẫn với vị trí các đồ vật có mặt trong phòng, HĐTP cho rằng việc này được thể hiện ở bản án nên không nhất thiết phải điều tra lại. Tình tiết này cũng không có ý nghĩa trong việc xác định Hải phạm tội hay không.
Thứ 6: không có dấu vết máu trên cánh cổng sau dù Hải khai trèo qua đây tẩu thoát sau khi cắt cổ các nạn nhân nên người Hải cũng dính máu. HĐTP cho rằng, chính Hải khai đã vào nhà vệ sinh rửa sạch máu sau gây án nên việc không phát hiện máu trên tường đã chứng minh Hải khai đúng, không cần thiết phải điều tra lại.
Thứ 7: về dấu vân tay thu thập được ở hiện trường không có của Hồ Duy Hải và không biết của ai, HĐTP lập luận, bưu điện là nơi công cộng nên nhiều dấu vấn tay là đúng. Việc này cũng không thể chứng minh Hải vô tội.
Thứ 8: kháng nghị cho rằng Hải đánh vào mặt chị Hồng bằng tay sẽ không gây ra vết thương trên mặt như bản ảnh thể hiện. HĐTP cho rằng nhận định này của viện kiểm sát là chủ quan, loại trừ một số cơ chế hình thành các vết thương. Các kết luận giám định cũng phù hợp với lời khai của Hải, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm tử thi… nên việc điều tra lại để làm rõ là không cần thiết.
Thứ 9, về ý kiến mẫu tàn tro thu được không có giá trị chứng minh trong vụ, HĐTP nhất trí việc nếu không có lời khai của Hải về việc tự đốt quần áo, cơ quan điều tra cũng không thể biết để thu giữ. Giám định mẫu tro phát hiện nguyên liệu làm quần áo, phù hợp với lời khai của Hải.
Thứ 10, kháng nghị cho rằng điều tra không làm rõ nơi Hải tiêu thụ tài sản cướp được. Về việc này, HĐTP cho rằng Hải đã mô tả tài sản của nạn nhân Hồng phù hợp với lời khai của bố đẻ và bạn của chị; Hải cũng nhận dạng được các tài sản này khi thực nghiệm và vẽ chính xác sơ đồ nơi tiêu thụ tài sản. Vì vậy, không nhất thiết phải trả hồ sơ làm rõ việc này.
Thứ 11, kháng nghị cho rằng Hải khai lần đầu đến Bưu điện Cầu Voi nhưng lại mô tả được chi tiết các đồ vật có mặt trong phòng. HĐTP nhận thấy, thời gian Hải có mặt tại hiện trường từ 19h30 đến 21h 30 là đủ để biết các chi tiết trong một không gian nhỏ như bưu điện.
Thứ 12, kháng nghị mâu thuẫn trong việc Hải trở về nhà, lúc khai về cửa mở, lúc khai cửa khóa… nhưng HĐTP khẳng định việc này không phải tình tiết chứng minh tội phạm, không cần điều tra lại.
Thứ 13, về việc kháng nghị nêu các chứng cứ thu được như con dao, thớt, ghế… không phải công cụ gây án. HĐTP cho rằng phía điều tra không biết thớt là hung khi cho đến khi Hải khai ra, Hải cũng giấu kỹ con dao và được nhân viên thu dọn phát hiện, đem đốt bỏ…
Việc cơ quan điều tra mua dao, thớt về chỉ để các nhân viên này và Hải nhận dạng, không phải dùng làm chứng cứ như kháng nghị nêu. Vì vậy, không cần trả hồ sơ điều tra lại.
Thứ 14, về kháng nghị liên quan đến thời điểm chết của nạn nhân, HĐTP đồng ý đây là thiếu sót trong điều tra nhưng việc này không làm ảnh hưởng đến bản chất vụ án.
Thứ 15, về việc khám nghiệm tử thi, kháng nghị cho rằng vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng khi một người vừa khám nghiệm hiện trường vừa khám nghiệm tử thi. HĐTP dẫn các chữ ký trong hồ sơ và khẳng định khám nghiệm đã đủ thành phần, kháng nghị của viện tối cao thiếu căn cứ.
Thứ 16, về kháng nghị nội dung không đưa lời khai ban đầu của Hải và một số nhân chứng khác vào hồ sơ, HĐTP cũng đồng tình đây đây là thiếu sót của cơ quan điều tra. Tuy nhiên, các tài liệu này không ảnh hưởng đến bản chất vụ án nên không nhất thiết phải điều tra lại.
Thứ 17, HĐTP cho rằng có sửa chữa chính tả trong biên bản ghi lời khai nhưng việc này là sai sót nhưng không làm ảnh hưởng bản chất vụ án.
Theo HĐTP, trong những thời điểm quan trọng, Hải đều nhận hành vi phạm tội và xin giảm nhẹ hình phạt. Quá trình xem xét vụ án không có bằng chứng Hải bị bức cung, nhục hình; không có bằng chứng chứng minh Hải ngoại phạm; có nhiều chi tiết chỉ có người có mặt ở hiện trường và thực hiện hành vi mới có thể biết được. Do đó, HĐTP TAND tối cáo cho rằng có đủ căn cứ để khẳng định Hải đã thực hiện hành vi phạm tội với chị Hồng và chị Vân.
Từ những căn cứ nêu trên, HĐTP TAND tối cao quyết định không chấp nhận quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện KSND tối cao.