Bộ Công Thương vừa công bố dự thảo Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực và sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Theo đó, Nghị định này quy định hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức xử phạt, các biện pháp khắc phục hậu quả; thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính và thầm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực và sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Đáng chú ý, tại bản dự thảo Nghị định trên, Bộ Công Thương đã đề xuất các hành vi vi phạm được đề xuất sẽ xử lý nghiêm khắc hơn.
Cụ thể, Dự thảo Nghị định đề xuất thời hiệu xử phạt vi phạm trong lĩnh vực điện lực và lĩnh vực sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả là 1 năm, trừ các hành vi vi phạm về phát điện, xuất nhập khẩu điện, kinh doanh mua bán điện, sản xuất, nhập khẩu phương tiện, thiết bị sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả thì thời hiệu xử phạt là 2 năm.
Với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính nhiều lần thì áp dụng là tình tiết tăng nặng để người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính xem xét ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, trừ một số trường hợp theo quy định
Ngoài hình thức xử phạt chính gồm cảnh cáo và phạt tiền, Dự thảo cũng đưa ra Hình thức xử phạt bổ sung: Tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính; Đình chỉ hoạt động của tô chức kiểm định từ 1 tháng đến 3 tháng; Đình chỉ hoạt động dán nhãn năng lượng từ 4 tháng đển 6 tháng; Tước quyền sử dụng Thẻ kiểm định viên từ 1 tháng đến 3 tháng; Tước quyền sử dụng chứng chỉ kiểm toán viên năng lượng từ 6 tháng đến 12 tháng; Tước quyền sử dụng chứng chỉ người quản lý năng lượng từ 6 tháng đến 12 tháng.
Theo đó, mức phạt tiền tối đa đối với mỗi hành vi vi phạm trong lĩnh vực điện lực và lĩnh vực sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả là 100 triệu đồng đối với cá nhân và 200 triệu đồng đối với tổ chức. Cùng với đó, cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả.
Thực tế cho thấy, giai đoạn 2011–2015, mức tiết kiệm năng lượng của Việt Nam đạt 5,65%, tương đương 11,2 KTOE – gần gấp đôi so với giai đoạn 2006–2010. Đây là minh chứng rõ ràng cho hiệu quả của công tác quản lý nhà nước và sự hưởng ứng của xã hội trong việc thực thi Luật.
Tuy nhiên, trong bối cảnh mới của chuyển dịch năng lượng, nhu cầu cấp bách hiện nay là hoàn thiện cơ chế giám sát, chế tài, kiểm toán năng lượng, đồng thời tăng cường ứng dụng công nghệ số trong quản lý và giám sát tiêu thụ năng lượng. Việc sớm ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi sẽ tạo điều kiện để các chính sách tiết kiệm năng lượng đi vào chiều sâu, gắn kết chặt chẽ với mục tiêu trung hòa carbon đến năm 2050.






