Tại Hội nghị lấy ý kiến góp ý vào các Dự thảo Văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng do Đảng ủy Trung ương Hội Luật gia Việt Nam phối hợp với Chi ủy Liên đoàn Luật sư Việt Nam tổ chức 29/10, nhiều chuyên gia, nhà khoa học, luật gia và luật sư đã tham gia thảo luận sôi nổi, đóng góp ý kiến tâm huyết, trách nhiệm vào các dự thảo văn kiện.
Hầu hết các đại biểu thống nhất nhận định rằng, các Dự thảo Văn kiện được chuẩn bị công phu, nghiêm túc, vừa bảo đảm tính kế thừa, vừa có nhiều điểm mới, mang tính đột phá, phản ánh tầm nhìn chiến lược và tư duy đổi mới sáng tạo của Đảng trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới.
Tự chủ chiến lược phải dựa trên nền tảng pháp quyền mạnh
Phát biểu tại hội nghị, bà Lê Thị Mai Phương - Bí thư chi bộ Tạp chí Pháp lý, Phó viện trưởng Viện Khoa học Pháp lý và kinh doanh quốc tế bày tỏ sự đồng thuận cao với chủ đề Đại hội XIV, coi đây là chủ đề “cô đọng, giàu tính hiệu triệu, thể hiện khát vọng vươn lên mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XXI”.
Bà nhấn mạnh cụm từ "tự chủ chiến lược", coi đây là nội dung có ý nghĩa xuyên suốt, cần được soi chiếu sâu hơn từ góc nhìn của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh, kiến tạo phát triển.
Theo bà Phương, tự chủ chiến lược không thể đạt được nếu thiếu nền tảng pháp quyền mạnh. Pháp quyền là "trục xương sống" của tự cường dân tộc – nơi mọi chính sách, cải cách và sáng kiến phát triển đều được vận hành minh bạch, có trách nhiệm và được kiểm soát hiệu quả.
Góp ý đối với Dự thảo Báo cáo Chính trị, bà Phương đề nghị nhấn mạnh mục tiêu “xây dựng thể chế kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập, minh bạch và có trách nhiệm”, đồng thời làm rõ nội hàm của “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” trong bối cảnh mới.
Theo bà, mô hình tăng trưởng cần dựa trên ba trụ cột: khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo; phát triển vùng động lực – liên kết vùng và nâng cao năng lực thể chế.
Bà cũng kiến nghị tập trung vào các trọng tâm như hoàn thiện pháp luật về quyền sở hữu, sử dụng, định đoạt tài sản; cải cách quản trị nhà nước theo hướng "điều tiết bằng pháp luật và dữ liệu số".
Đồng thời chú trọng xây dựng văn hóa liêm chính, kỷ luật và trách nhiệm trong hệ thống công vụ, ưu tiên phát triển nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực AI, dữ liệu lớn, năng lượng tái tạo.
Đề cập Dự thảo Báo cáo đánh giá 5 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021–2030, bà Phương cho rằng cần đánh giá sâu hơn các hạn chế như phân hóa giàu nghèo, hiệu lực quản lý nhà nước, phòng chống tham nhũng, xử lý cán bộ vi phạm, đồng thời chỉ rõ nguyên nhân yếu kém trong công tác quy hoạch và bổ nhiệm cán bộ.
Bà nhấn mạnh việc làm nổi bật vai trò của kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và đổi mới sáng tạo, coi đây là động lực phát triển chủ yếu giai đoạn 2026–2030, cùng với hoàn thiện thể chế khoa học – công nghệ, Chính phủ số, quốc gia số, ứng dụng dữ liệu mở trong quản lý và tư pháp, phát triển cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài tòa án.
Về Dự thảo Báo cáo công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng, bà Nguyễn Mai Phương kiến nghị bổ sung các hạn chế như: "Công tác học tập và làm theo Bác còn hình thức, một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa gương mẫu, việc xử lý vi phạm chưa nghiêm".
Bà Mai Phương cũng đề xuất ưu tiên nguồn lực cho các chiến lược trọng tâm trong Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội, đặc biệt là chuyển đổi sang kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế sáng tạo, với mốc thời gian, tiêu chí định lượng và cơ chế giám sát rõ ràng để bảo đảm hiệu quả thực thi.
Cần đổi mới tư duy lập pháp
Cũng chia sẻ tại Hội nghị, GS.TS Phan Trung Lý – Nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội nhấn mạnh, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng là sự kiện chính trị đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với tương lai phát triển của đất nước trong giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ, bước vào kỷ nguyên mới.
Ông tán thành với kết cấu, nội dung Dự thảo Báo cáo chính trị cũng như các chủ trương, chính sách lớn được nêu trong Văn kiện, đánh giá đây là bản dự thảo mang tính định hướng chiến lược, toàn diện, sâu sắc và thiết thực, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao của Đảng đối với Nhân dân và tương lai phát triển của đất nước.
Trong các nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, GS.TS Phan Trung Lý đặc biệt quan tâm đến nhiệm vụ, giải pháp hoàn thiện thể chế và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ông nhận định, Dự thảo Văn kiện lần này đã có bước phát triển quan trọng khi nhấn mạnh việc "đẩy nhanh hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nhanh, bền vững đất nước", trong đó thể chế chính trị giữ vai trò then chốt, thể chế kinh tế là trọng tâm, còn thể chế trên các lĩnh vực khác giữ vai trò quan trọng.
Cùng với đó là yêu cầu "tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu quả; mở rộng không gian phát triển; thực hiện mô hình hệ thống chính trị ba cấp, chính quyền địa phương hai cấp; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước – thị trường – xã hội, để thị trường thực sự có vai trò quyết định trong huy động và phân bổ nguồn lực".
GS.TS Phan Trung Lý cho rằng, để thực hiện được những yêu cầu này, điểm mấu chốt nằm ở đổi mới tư duy lập pháp, bởi chính tư duy lập pháp sẽ quyết định chất lượng của thể chế và năng lực của Nhà nước pháp quyền.
Ông phân tích, hoạt động xây dựng pháp luật thời gian qua đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện, bao quát hầu hết các lĩnh vực đời sống; Quốc hội ngày càng chuyên nghiệp hơn trong quy trình lập pháp; vai trò của nhân dân, doanh nghiệp, giới học giả được mở rộng. Tuy nhiên, nhìn dưới góc độ khoa học chính trị - pháp lý, vẫn còn những "điểm nghẽn" cơ bản.
Theo GS.TS Phan Trung Lý, trước hết là nghẽn về tư duy lập pháp, tư duy làm luật còn nặng về quản lý hành chính, chưa chuyển mạnh sang tư duy kiến tạo, thúc đẩy phát triển; nhiều quy định vẫn thiên về "luật hóa" các biện pháp quản lý thay vì tạo khuôn khổ pháp lý mở cho sáng tạo, hội nhập và chuyển đổi số.
Bên cạnh đó, nghẽn về quy trình và kỹ thuật lập pháp cũng là vấn đề đáng lưu ý, việc lập chương trình, soạn thảo, thẩm định, thẩm tra còn thiếu tính khoa học; tình trạng "vừa làm luật, vừa sửa luật" vẫn phổ biến, làm giảm tính ổn định của hệ thống pháp luật.
Ngoài ra, còn tồn tại nghẽn về phối hợp thể chế giữa các cơ quan trong quy trình lập pháp, và nghẽn trong cơ chế phản biện, tham vấn xã hội, khi việc lấy ý kiến công chúng còn hình thức, thiếu chiều sâu khoa học.
Từ đó, ông khẳng định: "Để xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện đại, Việt Nam cần một cuộc đổi mới toàn diện về tư duy lập pháp và quy trình xây dựng pháp luật".
Theo ông, đổi mới tư duy lập pháp phải được xây dựng trên ba trụ cột. Đầu tiên, là tư duy phát triển và kiến tạo, coi pháp luật không chỉ là công cụ điều chỉnh mà còn là "động lực thể chế" thúc đẩy sáng tạo, khơi thông nguồn lực, bảo đảm công bằng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong kỷ nguyên số.
Tiếp đó là tư duy pháp quyền và kiểm soát quyền lực, chuyển từ "quản lý bằng mệnh lệnh hành chính" sang "quản trị bằng pháp luật", bảo đảm mọi quyền lực đều được kiểm soát bằng cơ chế pháp lý rõ ràng, minh bạch, có trách nhiệm giải trình.
Cuối cùng là đổi mới phương thức và quy trình xây dựng pháp luật, hướng tới nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại, giảm mạnh thủ tục hành chính, chuyển từ "xin – cho" sang "phục vụ".






