Mối “duyên nợ” với báo chí
Từ các tư liệu lịch sử cho thấy, trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, ngay từ rất sớm, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã có những mối duyên nợ với báo chí và chính Người cũng đã sớm nhận thức rất rõ về vai trò và sứ mệnh của báo chí đối với sự nghiệp cách mạng.

Trao đổi với Tạp chí Đời sống và Pháp luật, PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Từ một người yêu nước và có hoài bão to lớn là giải phóng dân tộc, người thanh niên Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã trở thành một chiến sĩ cộng sản quốc tế, với sự soi đường của chủ nghĩa Marx - Lenin mà Người được tiếp cận trước hết qua báo chí.
“Trong quá trình lao động, học hỏi và giác ngộ cách mạng, Bác bắt đầu quan tâm đến một phương tiện thông tin phổ biến, nhiều tác dụng là báo chí. Đặc biệt, quá trình tìm đường giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, Người tâm đắc và chịu ảnh hưởng của Lênin trong quan niệm về vai trò của báo chí: “Cái mà chúng ta nhất thiết phải có lúc này là một tờ báo chính trị. Trong thời đại ngày nay, không có tờ báo chính trị thì không thể có phong trào gọi là chính trị...””, PGS. TS Nguyễn Trọng Phúc nhấn mạnh.
Do đó, từ cuối năm 1917, khi trở lại Pháp, tuy vốn ngôn ngữ chưa đủ để viết báo nhưng với tinh thần quyết tâm cao, Bác Hồ tự học tiếng và học làm báo. Những ngày đầu, Người được Longuet - cháu ngoại của Karl Marx, làm việc ở báo Sinh hoạt công nhân - nhiệt tình chỉ dẫn nghiệp vụ báo chí đơn giản. Từ những mẩu tin, bài, tư liệu tản mạn có chủ đề nhỏ, Bác viết thành các bài có chủ đề lớn, tập trung. Những bài viết của Bác đăng trên báo là các báo có ngân quỹ ít ỏi nên hầu như không có nhuận bút, nhưng lại mang ý nghĩa tinh thần rất lớn. Vì vậy, ban ngày Bác đi làm, tối tham gia mít tinh, biểu tình, vận động cách mạng, đêm vẫn ngồi cặm cụi viết báo.
Ngày 28/6/1919, hội nghị các nước thắng trận trong Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất khai mạc tại Versailles. Thay mặt những Việt kiều, Bác viết và gửi đến hội nghị bản yêu sách 8 điểm đòi quyền lợi cho nhân dân Việt Nam. Bản yêu sách đã được đăng toàn văn trên hai tờ báo L’Humanité (Nhân đạo) và Le Populaire (Dân chúng), cơ quan ngôn luận của Trung ương đảng Xã hội Pháp, với đầu đề “Quyền của các dân tộc”. Trong bài viết này, Người đã đưa ra 8 yêu sách thiết thực, đấu tranh đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền độc lập tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam, trong đó có cả quyền tự do tư tưởng và tự do báo chí.
Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cùng một số chính khách thành lập Hội Liên hiệp Thuộc địa và năm 1922 lập ra Le Paria (Người cùng khổ) là cơ quan ngôn luận của Hội. Le Paria với số đầu xuất bản ngày 1/4/1922 đã thể hiện tinh thần đoàn kết và giải phóng con người. Nguyễn Ái Quốc trở thành nòng cốt của tờ báo. Ngoài tờ “Người cùng khổ”, Bác còn viết cho nhiều tờ báo bằng tiếng Pháp nữa.

Bắt đầu từ cuối năm 1923, Chủ tịch Hồ Chí Minh theo học Trường Đại học Phương Đông. Tại đây, Nguyễn Ái Quốc đã viết nhiều bài báo về Lenin và Cách mạng tháng Mười. Người luôn chỉ ra Lenin và Cách mạng tháng Mười là ngọn đèn pha soi sáng con đường cách mạng Việt Nam.
Tháng 11/1924, Bác Hồ được Quốc tế Cộng sản phân công về Quảng Châu (Trung Quốc), tổ chức huấn luyện cán bộ cách mạng, thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội. Ngày 21/6/1925, Bác đã sáng lập báo Thanh niên – cơ quan ngôn luận của hội, khai sinh nền báo chí cách mạng Việt Nam. Trong các giai đoạn sau, Người tiếp tục sáng lập, trực tiếp tổ chức và phát hành những tờ báo cách mạng khác: Công nông (1926), Lính kách mệnh (1927), Thân ái (1928), Tạp chí Đỏ (1930), Việt Nam độc lập (1941), Cứu quốc (1942), Nhân dân (1951)… để đáp ứng nhu cầu của cách mạng Việt Nam.
Theo PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc, có thể khẳng định, báo chí đã góp phần rất quan trọng vào việc hình thành thế giới quan cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, Người lại vận dụng ngược trở lại biến báo chí trở thành một công cụ hữu hiệu và sắc bén để phục vụ hoạt động cách mạng của mình. Theo quan điểm của Người, báo chí là vũ khí đấu tranh nên báo chí cách mạng trước tiên phải mang tính chiến đấu, tính định hướng và tính quần chúng nhằm tuyên truyền cổ động, huấn luyện, giáo dục và tổ chức dân chúng.
“Không chỉ sáng lập, đặt nền móng và trực tiếp đóng góp rất lớn cho nền báo chí cách mạng Việt Nam. Chính bản thân Bác cũng là một nhà báo lỗi lạc”, ông Phúc khẳng định.
Những giá trị vượt thời đại

Theo những thống kê chưa đầy đủ, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng trên 170 bút danh để viết trên 2.000 bài báo bằng nhiều thứ tiếng khác nhau, nhiều thể loại khác nhau (chính luận, tiểu phẩm, truyện, ký và thơ...) đề cập đến toàn bộ các vấn đề rộng lớn của cách mạng, của đời sống xã hội.
Các bài viết của Người bao giờ cũng có giá trị lý luận và thực tiễn cao; vừa nhuần nhụy, đậm đà tính dân tộc, vừa giàu tính hiện đại; vừa mang tính chiến đấu, vừa có sức cảm hóa, thuyết phục mạnh mẽ đối với người đọc, thôi thúc họ đứng lên làm cách mạng giải phóng dân tộc và hướng tới những giá trị cao đẹp “chân - thiện - mỹ”. Đó chính là phong cách báo chí Hồ Chí Minh
Bên cạnh đó, những lời dạy của Bác về công tác báo chí là cả một kho tàng vô giá về lý luận báo chí cách mạng Việt Nam.
Theo PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi báo chí là một mặt trận và những người làm báo “cũng là chiến sĩ cách mạng” mà “cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”. Với nhận thức đó, Người đặt ra cho đội ngũ những người làm báo phần trách nhiệm chính trị to lớn với lịch sử, với cách mạng và với nhân dân.

Bác căn dặn các nhà báo: Trước khi đặt bút xuống trang giấy, người viết cần tự mình thật sáng tỏ, ta “Viết cho ai? Viết để làm gì? Viết như thế nào?”. Đó là kim chỉ nam trong tư duy và hành động của người làm báo cách mạng phải có mục tiêu rõ ràng, động cơ trong sáng và phương pháp phù hợp để mỗi bài viết đều mang lại ích nước, lợi dân.
Người dạy những người làm báo rằng: “Viết báo phải có căn cứ”, chưa điều tra, chưa nghiên cứu, chưa biết rõ, chớ nói, chớ viết. Không được vội vàng mới nghe qua đã viết, không được chủ quan, suy đoán, mà phải có điều tra, nghiên cứu kỹ; “Viết phải sát đối tượng”, bao giờ cũng phải tự hỏi viết cho ai xem, nói cho ai nghe, nếu không như vậy thì cũng như cố ý không muốn cho người ta nghe, không muốn cho người ta xem; “Viết ngắn gọn”, viết những điều thiết thực, đúng đường lối chính trị, viết ngắn, cô đọng, dễ hiểu, trình bày rõ ràng, mạch lạc; “Viết sinh động có sức lôi cuốn”; “Viết thẳng thắn, có tính chiến đấu cao”; “Viết khiêm tốn”; “Người làm báo luôn coi trọng tu dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng”.
Và để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh đội ngũ những người làm báo “cần phải tu dưỡng đạo đức cách mạng. Đạo đức đó là cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư”. Bác cũng yêu cầu cán bộ báo chí phải biết tự phê bình và phê bình. Bác coi đó “là vũ khí cần thiết và sắc bén nó giúp cho chúng ta sửa chữa sai lầm và phát triển ưu điểm.” Đối với nhà báo cách mạng “viết cũng như mọi việc khác, phải có chí, chớ giấu dốt, nhờ tự phê bình và phê bình mới tiến bộ”.
Bác nhấn mạnh: viết để nêu cái hay, cái tốt của dân ta, của bộ đội ta, của cán bộ ta. Đồng thời để phê bình những khuyết điểm của chúng ta, của cán bộ, của nhân dân, của bộ đội. Không nên chỉ viết cái tốt mà giấu cái xấu. Nhưng phê bình phải đúng đắn, nêu cái hay, cái tốt thì phải có chừng mực, chớ phóng đại. Có thế nào nói thế ấy.
“Sau 100 năm nhìn lại, từ nhãn quan của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta càng thấy rõ vai trò và trách nhiệm lịch sử của báo chí đối với sự nghiệp cách mạng dân tộc trước đây và hiện nay. Trong kỷ nguyên phát triển mới, nhiệm vụ của báo chí rất nặng nề. Mỗi người làm báo cần luôn giữ cho mình “Tâm sáng, lòng trong, ngòi bút sắc” để góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước”, PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc khẳng định.