Bộ Tư pháp cho biết, Nghị định số 19/2020/NĐ-CP là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động kiểm tra và xử lý kỷ luật trong công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Sau hơn 03 năm triển khai thực hiện Nghị định số 19/2020/NĐ-CP, việc kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đã đạt được nhiều kết quả tích cực trên tất cả các lĩnh vực thuộc phạm vi, chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của các bộ, ngành, địa phương, góp phần đảm bảo kỷ luật, kỷ cương trong thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Nhìn chung, việc kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đã được thực hiện bảo đảm theo đúng trình tự, thủ tục quy định tại Chương II Nghị định số 19/2020/NĐ-CP. Theo đó, hằng năm, các bộ, ngành và địa phương đều ban hành kế hoạch và quyết định về kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Từ năm 2020 đến tháng 7/2023, các bộ, ngành đã tổ chức thực hiện 348 cuộc kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và ban hành 328 kết luận kiểm tra. Tại địa phương, các UBND cấp tỉnh đã tiến hành 920 cuộc kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và ban hành 703 kết luận kiểm tra; các UBND cấp huyện đã tiến hành 1.197 cuộc kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và ban hành 779 kết luận kiểm tra. Về thi hành hình thức xử lý kỷ luật, hầu hết các bộ, ngành, địa phương đã nghiêm túc tuân thủ các quy định về xử lý kỷ luật trong thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, kịp thời khắc phục, nghiêm túc chấn chỉnh rút kinh nghiệm đối với những sai sót, sai phạm trong quá trình thực thi công vụ.
Tuy nhiên, sau hơn 03 năm triển khai thi hành Nghị định số 19/2020/NĐ-CP trên thực tiễn, Bộ Tư pháp nhận thấy, một số quy định của Nghị định này đã bộc lộ khó khăn, vướng mắc và cần được nghiên cứu, hoàn thiện, cụ thể:
Tại Điều 6 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP (được hướng dẫn bởi Điều 2 Thông tư số 14/2021/TT-BTP ngày 30/12/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định số 19/2020/NĐ-CP ngày 12 tháng 02 năm 2020 của Chính phủ kiểm tra, xử lý kỷ luật trong thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính (Thông tư số 14/2021/TT-BTP)) quy định về thẩm quyền kiểm tra. Tuy nhiên, quy định nêu trên không nêu rõ về thẩm quyền kiểm tra của Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân các cấp.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 8 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP, đoàn kiểm tra phải có từ 05 thành viên trở lên, trong đó bao gồm Trưởng đoàn, 01 Phó trưởng đoàn và các thành viên. Tuy nhiên, hiện nay, quy định này còn nhiều vướng mắc trong thực tiễn thi hành, bởi vì, thực tế tổ chức thực hiện hoạt động kiểm tra thấy rằng, quy định này áp dụng ở cấp tỉnh là phù hợp nhưng ở cấp huyện, việc thành lập đoàn kiểm tra với số lượng thành viên nêu trên sẽ ảnh hưởng đến quá trình triển khai và gặp khó khăn do số lượng cán bộ, công chức cấp huyện được bố trí còn hạn chế. Bên cạnh đó, việc Nghị định quy định "cứng" 01 Phó trưởng đoàn cũng không phù hợp, thiếu tính linh hoạt trong trường hợp đoàn kiểm tra có nhiều thành viên và kiểm tra nhiều đối tượng.
Một số quy định về trình tự, thủ tục tổ chức cuộc kiểm tra, xây dựng kết luận kiểm tra, tổ chức thực hiện kết luận kiểm tra tại Nghị định số 19/2020/NĐ-CP tương đối chặt chẽ. Trong quá trình thực hiện các quy định trên, bộ, ngành, địa phương cho rằng, quy định như vậy rất khó khăn và mất nhiều thời gian tổ chức thực hiện, làm ảnh hưởng đến hiệu quả của cuộc kiểm tra. Bên cạnh đó, một số quy định về thời hạn trong kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính quá ngắn, không bảo đảm tính khả thi.
Nghị định số 19/2020/NĐ-CP quy định các hành vi vi phạm của cán bộ, công chức, viên chức trong thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Tuy nhiên, một số hành vi bị nghiêm cấm theo quy định của Điều 12 Luật Xử lý vi phạm hành chính chưa được quy định tại Nghị định này. Bên cạnh đó, trong thực tiễn, có một số hành vi vi phạm của người có thẩm quyền trong quá trình xử lý vụ việc vi phạm hành chính (phát hiện vụ việc vi phạm, lập biên bản vi phạm hành chính, chuyển hồ sơ vụ việc vi phạm) chưa được cụ thể hóa thành hành vi vi phạm.
Ngoài ra, một số hành vi hiện hành tại Nghị định không thực sự cần thiết áp dụng hình thức xử lý kỷ luật như hành vi tiết lộ thông tin, tài liệu về kết luận kiểm tra khi chưa có kết luận chính thức, hành vi ban hành trái thẩm quyền văn bản quy định về hành vi vi phạm hành chính, về thẩm quyền, thủ tục, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước và biện pháp xử lý hành chính.
Từ cơ sở chính trị, pháp lý và thực tiễn đã nêu, việc xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 19/2020/NĐ-CP là rất cần thiết, nhằm giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn, góp phần bảo đảm sự phù hợp, thống nhất và đồng bộ trong hệ thống pháp luật, tạo thuận lợi và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra và xử lý kỷ luật trong thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
Phải tự kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính ít nhất 1 lần trong năm
Trên cơ sở rà soát các quy định của Nghị định số 19/2020/NĐ-CP với các quy định của Luật XLVPHC, Nghị định số 118/2021/NĐ-CP (và Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 118/2021/NĐ-CP), Thông tư số 14/2021/TT-BTP và các văn bản pháp luật khác có liên quan, Điều 1 dự thảo Nghị định dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 19/2020/NĐ-CP, tập trung vào các vấn đề cơ bản:
Cụ thể, sửa đổi, bổ sung quy định về việc tự kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
Bổ sung khoản 5 vào sau khoản 4 Điều 4 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP như sau: Thủ trưởng cơ quan, đơn vị có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính có trách nhiệm thường xuyên thực hiện tự kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính ít nhất 1 lần trong năm nhằm đánh giá việc thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Quy định này nhằm tạo căn cứ pháp lý cho việc thực hiện chức năng tự kiểm tra của thủ trưởng cơ quan, đơn vị có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính, đồng thời, nâng cao nhận thức của các chủ thể này về sự cần thiết của hoạt động tự kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
Phân định thẩm quyền kiểm tra của từng chủ thể tiến hành hoạt động kiểm tra
Dự thảo sửa đổi, bổ sung quy định về thẩm quyền kiểm tra của Bộ trưởng Bộ Tư pháp; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện; Thủ trưởng cơ quan, đơn vị thuộc cơ quan Trung ương được tổ chức theo ngành dọc quản lý người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính; Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo hướng xác định cụ thể, rõ ràng và phân định thẩm quyền kiểm tra của từng chủ thể tiến hành hoạt động kiểm tra. Cụ thể:
- Bộ trưởng Bộ Tư pháp kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính của các bộ, cơ quan ngang bộ, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Ủy ban nhân dân các cấp và các cơ quan quản lý người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính và giúp Chính phủ kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính của Tòa án nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước theo quy định tại khoản 1 Điều 17 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
- Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đối với ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc; Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong phạm vi được giao tổ chức thực hiện.
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp xã thuộc phạm vi địa bàn quản lý; cơ quan thuộc cơ quan Trung ương được tổ chức theo ngành dọc đóng trên địa bàn địa phương. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đối với cơ quan Trung ương được tổ chức theo ngành dọc đóng trên địa bàn một tỉnh nhưng phạm vi hoạt động liên quan đến nhiều tỉnh là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi cơ quan được tổ chức theo ngành dọc đóng trụ sở.
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp xã thuộc phạm vi địa bàn quản lý; cơ quan thuộc cơ quan Trung ương được tổ chức theo ngành dọc đóng trên địa bàn địa phương.
- Thủ trưởng cơ quan, đơn vị thuộc cơ quan Trung ương được tổ chức theo ngành dọc quản lý người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính thực hiện kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đối với cơ quan, đơn vị cấp dưới của mình.
- Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong phạm vi ngành, lĩnh vực ở địa phương mà mình tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý theo quy định của pháp luật và theo phân công hoặc uỷ quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Quy định rõ thẩm quyền thành lập đoàn kiểm tra
Dự thảo sửa đổi, bổ sung quy định về đoàn kiểm tra theo hướng quy định rõ thẩm quyền thành lập đoàn kiểm tra.
Đồng thời, dự thảo Nghị định quy định chung về thành phần đoàn kiểm tra thay vì quy định cụ thể về yêu cầu số lượng các thành viên đoàn kiểm tra như trong Nghị định số 19/2020/NĐ-CP. Việc sửa đổi này nhằm tháo gỡ 02 vướng mắc trong thực tiễn: (i) Ở cấp huyện, việc thành lập đoàn kiểm tra với số lượng thành viên 05 người như tại khoản 2 Điều 8 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP sẽ ảnh hưởng đến quá trình triển khai và gặp khó khăn do số lượng cán bộ, công chức cấp huyện được bố trí còn hạn chế; (ii) việc khoản 2 Điều 8 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP quy định "cứng" Phó trưởng đoàn là không phù hợp, thiếu tính linh hoạt trong nhiều trường hợp.
Dự thảo cũng bổ sung quy định về nội dung kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, gồm: (i) Việc thực hiện thanh tra, kiểm tra và xử lý kỷ luật trong thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; (ii) việc hướng dẫn thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm.
Bổ sung quy định yêu cầu các bộ, cơ quan ngang bộ, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Tòa án nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh gửi Kế hoạch kiểm tra việc thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đến Bộ Tư pháp trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ban hành…
Bộ Tư pháp đang lấy ý kiến góp ý dự thảo này trên Cổng Thông tin điện tử Bộ Tư pháp.
Theo Báo Chính phủ