Tờ Dân trí đưa tin, bộ sách giáo khoa (SGK) Tiếng Việt 1 - Công nghệ giáo dục của GS Hồ Ngọc Đại đã bị 15/15 thành viên hội đồng xếp loại "Không đạt" với gần 300 nội dung, chi tiết cần sửa, cần bỏ, phần lớn là những nội dung mà hội đồng cho rằng sách "vượt chương trình", "quá khó với học sinh lớp 1", một số vấn đề kỹ thuật, trình bày.
Ở sách Toán 1 - Công nghệ giáo dục, cũng bị hội đồng thẩm định cho rằng, có nhiều nội dung "không nằm trong yêu cầu của chương trình", "vượt yêu cầu của chương trình".
Theo quy định, hội đồng quốc gia thẩm định sách giáo khoa sẽ có ba mức xếp loại "Đạt", "Đạt nhưng cần sửa chữa" và "Không đạt". Sách giáo khoa Công nghệ giáo dục bị xếp "Không đạt" trong đợt thẩm định này.
Mặc dù vậy, Hội đồng quốc gia thẩm định SGK nhận xét, bộ sách của GS Hồ Ngọc Đại được biên soạn công phu, tâm huyết, có quan điểm, cách tiếp cận riêng.
Chia sẻ về việc sách giáo khoa (SGK) Công nghệ Giáo dục của GS Hồ Ngọc Đại không đạt tại hội đồng thẩm định, GS.TS Mai Ngọc Chừ - thuộc hội đồng thẩm định SGK Tiếng Việt lớp 1 cho biết chương trình mới của Bộ GD&ĐT bao gồm nhiều yếu tố về giáo dục toàn diện, bảo vệ môi trường, bình đẳng giới chứ không phải chỉ có việc dạy viết, đánh vần.
Bộ sách của GS Hồ Ngọc Đại dạy “một mớ kiến thức không cần thiết về ngữ âm". Giáo viên dạy sách thầy Đại thậm chí ban đêm phải bổ sung kiến thức của SGK hiện hành, tăng thêm giờ làm việc 2-3 lần. Các thầy cô cũng cho rằng sách mở nhưng giáo viên phải dạy như cái máy.
Những câu thành ngữ, tục ngữ như bé xé ra to, con cà con kê, trăm thứ bà giằng, vắt chanh bỏ vỏ… là kiến thức khó. Học sinh phải tiếp cận với kiến thức ngôn ngữ học, khái niệm âm đệm, nguyên âm đôi, kiến thức này là quá sức với học sinh lớp 1, trong khi nguyên tắc của chương trình mới là giảm tải nội dung khó, nâng cao.
Trước kết quả sách giáo khoa Tiếng Việt 1- Công nghệ giáo dục bị loại, GS Hồ Ngọc Đại cho biết ông đau xót khi bộ sách Tiếng Việt 1- Công nghệ giáo dục mà ông dành cả đời để nghiên cứu bị hội đồng thẩm định quốc gia đánh trượt từ vòng ngoài.
GS Hồ Ngọc Đại cũng thông tin thêm rằng ông không bất ngờ về kết quả bộ sách bị loại. Ông sẽ không sửa gì vì đây là sản phẩm nghiên cứu suốt 50 năm công tác trong ngành giáo dục của ông. “Việc này không đơn giản là hội đồng có mười mấy người và biểu quyết thông qua. Trò chơi biểu quyết, thủ thuật không phải lúc nào cũng đúng”, ông bày tỏ sau khi có thông tin.
Trước đó, GS Hồ Ngọc Đại từng nói, sách Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục do ông chịu trách nhiệm, chiếm nhiều công sức và là thành tựu lớn nhất của ông.
13 tiêu chí để đánh giá sách giáo khoa xếp loại “đạt” bao gồm:
Điều kiện tiên quyết của sách giáo khoa
1. Nội dung và hình thức sách giáo khoa không trái với quy định của pháp luật Việt Nam và phù hợp với tiêu chuẩn quốc gia về xuất bản phẩm.
2. Nội dung và hình thức sách giáo khoa không mang định kiến về sắc tộc, tôn giáo, nghề nghiệp, giới, lứa tuổi và địa vị xã hội.
Nội dung sách giáo khoa
3. Nội dung sách giáo khoa thể hiện đúng và đầy đủ nội dung của chương trình môn học hoặc hoạt động giáo dục; bảo đảm tính cơ bản, khoa học, thiết thực, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
4. Các thuật ngữ, khái niệm, định nghĩa, số liệu, sự kiện, hình ảnh bảo đảm chính xác, khách quan, nhất quán và phù hợp với trình độ học sinh; các số liệu, sự kiện, hình ảnh có nguồn gốc rõ ràng.
5. Các thành tựu khoa học mới liên quan đến chương trình môn học, hoạt động giáo dục được cập nhật, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và phù hợp với mục tiêu của chương trình môn học, hoạt động giáo dục.
6. Những nội dung giáo dục về chủ quyền quốc gia, quyền con người, quyền trẻ em, bình đẳng giới, phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu được thể hiện hợp lý.
Phương pháp giáo dục và đánh giá kết quả giáo dục trong sách giáo khoa
7. Các bài học trong sách giáo khoa tạo điều kiện cho giáo viên vận dụng sáng tạo các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học lấy hoạt động học của học sinh làm trung tâm; tạo cơ hội và khuyến khích học sinh tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập, phát huy tiềm năng của mỗi học sinh.
8. Các bài học trong sách giáo khoa thể hiện đúng, đủ, rõ mức độ đáp ứng yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực của học sinh và yêu cầu về đánh giá kết quả giáo dục được quy định trong chương trình môn học, hoạt động giáo dục, làm cơ sở cho việc đánh giá chính xác kết quả giáo dục.
Cấu trúc sách giáo khoa
9. Cấu trúc sách giáo khoa có đủ các thành phần cơ bản sau: phần, chương hoặc chủ đề; bài học; giải thích thuật ngữ; mục lục.
10. Cấu trúc bài học trong sách giáo khoa bao gồm các thành phần cơ bản sau: mở đầu, kiến thức mới, luyện tập, vận dụng.
Ngôn ngữ sử dụng trong sách giáo khoa và hình thức trình bày sách giáo khoa
11. Ngôn ngữ sử dụng trong sách giáo khoa là tiếng Việt (trừ sách giáo khoa ngoại ngữ và sách giáo khoa tiếng dân tộc thiểu số), bảo đảm các quy định về chính tả và ngữ pháp, các chữ viết tắt, các ký hiệu, phiên âm, đơn vị đo theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo; diễn đạt trong sáng, dễ hiểu, thể hiện chính xác nội dung cần trình bày, phù hợp với lứa tuổi học sinh.
12. Hình thức trình bày sách giáo khoa cân đối, hài hòa giữa kênh chữ và kênh hình, hệ thống ký hiệu, biểu tượng, kiểu chữ, cỡ chữ.
13. Tranh, ảnh, bảng biểu, đồ thị, bản đồ, hình vẽ trong sách giáo khoa rõ ràng, chính xác, cập nhật, có tính thẩm mỹ, phù hợp với nội dung bài học, lứa tuổi học sinh và chỉ rõ nguồn trích dẫn.