Sáng 25/9, dưới sự chỉ đạo của Hội Luật gia Việt Nam, Tạp chí Đời sống và Pháp luật/Tạp chí điện tử Người Đưa Tin tổ chức toạ đàm "Tháo gỡ điểm nghẽn pháp lý tạo không gian phát triển cho doanh nghiệp".
Về phía các chuyên gia, diễn giả tham dự toạ đàm có: TS. Phan Đức Hiếu - Uỷ viên Uỷ ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội; PGS.TS Trần Đình Thiên - thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách của Thủ tướng Chính phủ, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam; Luật sư Trương Thanh Đức - Giám đốc Công ty Luật ANVI; Bà Nguyễn Thị Cẩm Huyên - Giám đốc Pháp chế Ngân hàng OCB.
Về phía Hội Luật gia Việt Nam có TS. Trần Công Phàn - Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam và các trưởng ban chuyên môn.
Về phía Khách mời có TS. Đặng Thanh Hải – Phó Tổng Giám đốc Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam; Luật sư Nguyễn Thị Ngọc Anh – Giám đốc Công ty Luật ATA.
Toạ đàm còn có đại diện các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán cùng các doanh nghiệp tham dự.
Phát biểu khai mạc, Nhà báo Phạm Quốc Huy - Tổng biên tập Tạp chí Đời sống và Pháp luật/ Tạp chí Người Đưa Tin cho biết, ngày 4/5/2025, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân, trong đó khẳng định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong trong phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; vì vậy cần thúc đẩy mạnh mẽ kinh tế tư nhân phát triển thông qua việc đột phá thể chế, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, minh bạch, bình đẳng và hỗ trợ nguồn lực.
Cùng với đó, Nghị quyết 66 được ban hành ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đã nhấn mạnh yêu cầu hoàn thiện thể chế, xóa bỏ rào cản, những quy định chồng chéo, bất cập, gây cản trở đầu tư – kinh doanh, giảm chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp, đồng thời bảo đảm sự thống nhất và đồng bộ của hệ thống pháp luật.
Hai nghị quyết quan trọng này đã đặt ra nhiệm vụ kép: vừa tạo điều kiện để khu vực kinh tế tư nhân bứt phá, vừa củng cố nền tảng pháp lý minh bạch, hiện đại và hội nhập. Tuy nhiên, để biến tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị thành hiện thực sinh động, chúng ta phải thẳng thắn nhìn nhận vẫn còn những rào cản pháp lý tồn tại, không ít doanh nghiệp gặp khó khăn khi vướng vào tình trạng xung đột của các quy định hoặc chồng chéo của pháp luật
Tọa đàm hôm nay chính là dịp để các chuyên gia pháp lý, các nhà hoạch định chính sách và đại diện doanh nghiệp cùng nhận diện, phân tích những "điểm nghẽn" đang hiện hữu, đồng thời đề xuất giải pháp tháo gỡ từ góc độ lập pháp, thực thi và thực tiễn kinh doanh.
"Chúng tôi kỳ vọng những ý kiến trao đổi tại diễn đàn này sẽ góp phần hiến kế cho Đảng, Nhà nước và các cơ quan quản lý, giúp hoàn thiện thể chế, kiến tạo môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng và thuận lợi hơn", Nhà báo Phạm Quốc Huy nhấn mạnh.
Đã đến lúc "đưa cuộc sống vào nghị quyết"
Tham dự và phát biểu chỉ đạo tại Toạ đàm, TS. Trần Công Phàn – Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam, ĐBQH khoá XV bày tỏ niềm vui khi được thay mặt cho Trung ương Hội Luật gia Việt Nam tham dự toạ đàm do Tạp chí Đời sống và Pháp luật, cơ quan ngôn luận của Trung ương Hội Luật gia Việt Nam tổ chức.
Theo TS. Trần Công Phàn, trong thời gian gần đây, với sự quyết tâm và thay đổi mạnh mẽ cả về tư duy và thể chế, Bộ Chính trị đã ban hành các Nghị quyết 57, Nghị quyết 59, Nghị quyết 66, Nghị quyết 68, Nghị quyết 71, Nghị quyết 72. Trong đó, Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân có mối quan hệ rất chặt chẽ với Nghị quyết 66 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật.
"Nghị quyết 66 là đổi mới "đột phá của đột phá" trong xây dựng pháp luật, còn Nghị quyết 68 tăng cường phát triển kinh tế tư nhân trong tình hình hiện nay. Hai nghị quyết này có mối liên hệ rất chặt chẽ với nhau", TS.Trần Công Phàn nói và nhấn mạnh chưa có thời điểm nào mà việc xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật, tạo không gian pháp lý thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân doanh nghiệp mạnh mẽ như hiện nay.
Theo ông Trần Công Phàn, Hội Luật gia Việt Nam ý thức được đây là những Nghị quyết rất quan trọng và Hội có nhiều lợi thế để thực hiện thắng lợi các nghị quyết này. Theo đó, Hội có hơn 100.000 hội viên là những người am hiểu pháp luật, công tác trong cơ quan pháp luật. Đây vừa là lợi thế nhưng cũng vừa là trách nhiệm để những hội viên Hội Luật gia Việt Nam am hiểu công tác pháp luật tham gia vào vấn đề này.
"Đảng ủy Trung ương Hội Luật gia, Lãnh đạo Trung ương Hội đã bàn rất kỹ và đã có kế hoạch để thực hiện Nghị quyết 66, Nghị quyết 68, thành lập Ban Chỉ đạo để thực hiện nghị quyết này. Và đã bàn rõ, để thực hiện nghị quyết này, trước mắt từ nay đến hết năm 2025 phải thực hiện gì trong xây dựng luật", ông Trần Công Phàn cho biết.
Theo Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam, Nghị quyết 66 cũng nêu rõ đến năm 2028 làm sao xây dựng pháp luật để tạo điều kiện phát triển doanh nghiệp được ổn định. Đây là tinh thần rất mới.
Ông Phàn cho rằng, lâu nay chúng ta thường nói đến việc "đưa pháp luật, đưa nghị quyết vào cuộc sống", nhưng có lẽ đã đến lúc phải "đưa cuộc sống vào nghị quyết, đưa cuộc sống vào pháp luật". Bởi nếu những gì đang vướng mắc, đang đặt ra trong thực tiễn được phản ánh đầy đủ vào pháp luật và nghị quyết thì khi ban hành, bản thân pháp luật và nghị quyết đó đã là cuộc sống, tự nhiên đi vào đời sống mà không còn khoảng cách.
Nhấn mạnh, toạ đàm "Tháo gỡ "điểm nghẽn" pháp lý tạo không gian phát triển cho doanh nghiệp" hết sức có ý nghĩa khi lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm. Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam Trần Công Phàn mong muốn tạo đàm sẽ tập trung thảo luận, tìm được những điểm nghẽn hiện nay về mặt thể chế, về thực tiễn từ đó tìm ra giải pháp để thực hiện tốt hơn, hiệu quả hơn. Đồng thời, sẽ lan toả kết quả của toạ đàm này đến các doanh nghiệp và các đối tượng quan tâm đến vấn đề này.
Ông Trần Công Phàn mong muốn kết quả của toạ đàm hôm nay với ý kiến góp ý của các chuyên gia, các nhà khoa học sẽ góp một phần nhỏ vào công tác tuyên truyền cũng như tổ chức thực hiện tốt các nghị quyết chiến lược trong đó có Nghị quyết 68.
Cải cách thể chế là công việc cả đời, không có điểm dừng
Tham luận tại toạ đàm với chủ đề "Cải cách thể chế: Nhận diện điểm nghẽn pháp lý và cơ chế cải cách bền vững", TS. Phan Đức Hiếu – Uỷ viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho biết, chúng ta đã có đầy đủ các chủ trương, nhưng vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để Nghị quyết 66 và Nghị quyết 68 thực sự được triển khai một cách đầy đủ, thực chất và đúng với tinh thần của hai nghị quyết này. Đây chính là điều vô cùng quan trọng. Chủ đề của toạ đàm là tháo gỡ điểm nghẽn pháp lý, vậy cần phải nhận diện các điểm nghẽn pháp lý như thế nào và tiêu chí gì để nhận diện những điểm nghẽn đó?
Theo ĐBQH Phan Đức Hiếu, câu chuyện của cải cách thể chế chính là thực thi. Việc thực thi Nghị quyết 66, Nghị quyết 68 không phải là việc có thể hoàn thành trong vòng một, hai năm mà đó là câu chuyện của cả đời, có nghĩa là cải cách thể chế là một công việc phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, không có điểm bắt đầu và cũng không có điểm kết thúc. Ông đặt ra câu hỏi: "Vậy thì đâu là cơ chế bền vững và động lực nào để làm cho việc này có thể diễn ra thường xuyên, liên tục?".
Theo ông Hiếu, chủ trương của Nghị quyết 68 và Nghị quyết 198 đã rất rõ ràng, rất mạnh mẽ và rất quyết liệt trong việc tạo dựng một môi trường thể chế dễ dàng, minh bạch, công bằng, thuận lợi và thúc đẩy sự phát triển sản xuất, kinh doanh. Đồng thời, các nghị quyết này đã đưa ra những chỉ tiêu tối thiểu như cắt giảm ít nhất 30% chi phí hay thủ tục hành chính, với mong muốn loại bỏ toàn bộ những thủ tục được coi là rào cản.
Ông Hiếu nêu vấn đề: "Bây giờ nhận diện như thế nào để cho các điểm nghẽn thể chế được đầy đủ và toàn diện?" Để minh hoạ, ông đưa ra ví dụ tại Điều 108, Nghị định 125/2024/NĐ-CP về điều kiện cho phép hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục. Quy định này yêu cầu tổ chức kiểm định phải có trụ sở hoạt động ổn định, bảo đảm diện tích làm việc tối thiểu là 8 m2 cho mỗi người; có đủ trang thiết bị phục vụ hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục; có nguồn lực tài chính để bảo đảm duy trì và phát triển hoạt động trong thời gian ít nhất 2 năm kể từ ngày được cho phép hoạt động; có ít nhất 10 kiểm định viên cơ hữu làm việc toàn thời gian theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc tối thiểu từ 12 tháng trở lên cho tổ chức kiểm định và có kinh nghiệm tham gia hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục trong thời gian từ 5 năm trở lên. Vậy thì đâu là điểm nghẽn pháp lý?
Từ kinh nghiệm trong quá trình tham mưu xây dựng chính sách, phản biện chính sách và nay là với vai trò có chức năng thông qua chính sách, ông Hiếu nhận thấy rằng một quy định pháp lý là cần thiết và có mục tiêu quản lý. Tuy nhiên, mặt trái của nó là nếu một quy định được thiết kế không tốt thì sẽ tạo ra những tác động không mong muốn, có nguy cơ gây ra năm hệ quả bất lợi đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Tác động đầu tiên là làm tăng chi phí. Tác động thứ hai là gây ra rủi ro cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tác động thứ ba là hạn chế sự sáng tạo, đổi mới trong mô hình và phương thức kinh doanh nếu quy định được thiết kế quá cứng nhắc. Tác động thứ tư là hạn chế cạnh tranh. Và tác động cuối cùng là gây bất lợi đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Khi phân tích sâu hơn về tác động làm gia tăng chi phí, ông Hiếu gọi đó là chi phí tuân thủ pháp luật. Một quy định pháp luật có thể khiến doanh nghiệp phát sinh năm loại chi phí. Thứ nhất là chi phí về thời gian và công sức mà doanh nghiệp phải bỏ ra để thực hiện thủ tục hành chính. Ông đưa ví dụ: một doanh nghiệp có thể phải thuê đến 3 – 4 người để xử lý các vấn đề liên quan đến báo cáo thuế nếu thủ tục phức tạp, trong khi nếu thủ tục đơn giản, chỉ cần 1 người có thể làm cho 3 doanh nghiệp thì chi phí sẽ hoàn toàn khác. Thậm chí, có doanh nghiệp phải bố trí cả phòng thuế, phòng kế toán với 10 đến 15 nhân sự, dẫn đến chi phí nhân lực rất lớn.
Thứ hai là phí và lệ phí. Theo ông Hiếu, có những loại phí và lệ phí được tính theo giá trị tài sản, dẫn đến khoản chi phí rất lớn. Việc cấp giấy phép theo giá trị, hay kiểm định một lô hàng nhập khẩu, đều kéo theo những khoản lệ phí đáng kể và tất cả những chi phí này đều được cộng dồn vào giá thành sản phẩm.
Thứ ba là chi phí đầu tư bằng tiền. Ông lấy ví dụ: khi thực hiện một dự án đầu tư, doanh nghiệp đã khó khăn trong việc vay vốn, nhưng vẫn còn phải vay thêm để ký quỹ; nếu không ký quỹ thì phải có bảo lãnh, khiến chi phí đội lên đáng kể.
Chi phí thứ tư là chi phí cơ hội. Sự chậm chạp trong việc thực hiện thủ tục hành chính có thể khiến doanh nghiệp bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Và cuối cùng là chi phí không chính thức, khi doanh nghiệp muốn thủ tục được giải quyết nhanh hơn, dù chỉ đơn giản là để thực hiện đúng quy định pháp luật, nhưng vẫn phải phát sinh thêm khoản chi phí ngoài.
Bên cạnh đó, nếu một quy định pháp luật không rõ ràng thì còn có thể gây ra rủi ro cho doanh nghiệp, thậm chí dẫn đến tranh chấp pháp lý. Doanh nghiệp, trong khi luôn nỗ lực để tuân thủ pháp luật, vẫn thường trực một tâm lý lo lắng rằng mình làm như vậy đã thực sự đúng luật hay chưa. Ngoài ra, việc đặt ra các điều kiện về cơ sở vật chất, văn phòng, trang thiết bị hay quy trình tổ chức kinh doanh quá chi tiết cũng làm hạn chế sự năng động, sáng tạo. Có những ngành nghề bị ràng buộc bởi các tầng nấc phức tạp, ví dụ phải có tổng đại lý rồi mới được mở bán lẻ, khiến mô hình kinh doanh bị bó buộc.
Một hệ quả nữa là làm méo mó cạnh tranh. Nếu điều kiện kinh doanh quá khó khăn khiến doanh nghiệp mới không thể gia nhập thị trường thì điều đó trở thành rào cản, đồng thời vô tình bảo hộ cho những doanh nghiệp đang có vị thế độc quyền. Khi cùng áp dụng một điều kiện kinh doanh nhưng chi phí quá lớn, thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ càng gặp bất lợi trong cạnh tranh.
Cần cơ quan độc lập, đủ thẩm quyền giám sát, thúc đẩy cải cách thể chế
"Vậy làm thế nào để cải cách thể chế trở thành một quá trình thường xuyên, liên tục và không có điểm dừng?", ông Hiếu đặt vấn đề.
Theo ông Hiếu, Việt Nam đã trải qua 3 hình thái cải cách. Năm 1999, Luật Doanh nghiệp được ban hành, tạo cú hích lớn cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Năm 2000 và 2005, chúng ta đã có quá trình cải cách đơn lẻ thông qua việc cắt bỏ hơn 150 loại giấy phép kinh doanh. Từ năm 2014 đến nay, Việt Nam đã có các nghị quyết mạnh mẽ về cải thiện môi trường kinh doanh và gần đây nhất là Nghị quyết 66 và 68, được ví như "bộ tứ" và "bộ lục" chiến lược. Như vậy, Việt Nam đã có đủ 3 trong bốn hình thái cải cách, nhưng vẫn chưa đạt được hình thái cải cách trở thành văn hoá.
Hiện nay, ở Việt Nam, vai trò cải cách thể chế quan trọng nhất vẫn chủ yếu dựa vào các bộ, ngành chủ động tự rà soát, tự đề xuất phương án bãi bỏ quy định. Tuy nhiên, theo ông Hiếu, kinh nghiệm quốc tế cho thấy cải cách sẽ rất khó khăn nếu chỉ xuất phát từ nỗ lực đơn lẻ của các cơ quan thực thi pháp luật hoặc chỉ dựa vào chỉ đạo từ trên xuống của Chính phủ. Việt Nam hiện đang thiếu một cơ quan độc lập có chức năng giám sát và thúc đẩy cải cách thể chế. Trong khi đó, tại Hàn Quốc, Canada, Hoa Kỳ, Anh đều có những cơ quan được trao nhiệm vụ rất quan trọng, bổ sung một tầng kiểm soát nữa về chất lượng thể chế trước khi một dự thảo luật được ban hành.
Ông Hiếu phân tích rằng, cơ quan độc lập này trên thế giới thường có vai trò hết sức quan trọng nhờ đảm bảo tính chuyên môn, tính độc lập, phi lợi ích và tính bao trùm trong việc rà soát, đánh giá và nhận diện các điểm nghẽn thể chế. Thậm chí, cơ quan này còn có thể chủ động xác định đâu là lĩnh vực ưu tiên, trọng tâm cần được cải cách để kiến nghị với Chính phủ. Nhìn ở tầm quốc gia, Việt Nam rất cần một cơ quan như vậy để tiến hành rà soát độc lập, khách quan.
Để các nghị quyết đi vào cuộc sống, ông Hiếu cho rằng có hai thách thức lớn. Một là làm sao nhận diện đầy đủ các rào cản để kịp thời bãi bỏ. Hai là phải duy trì được động lực cải cách ít nhất trong vòng mười năm, tức là cần một cơ chế bền vững.
Ông đề xuất, trước hết, cần xây dựng một bộ tiêu chí rõ ràng để rà soát và bãi bỏ quy định pháp luật. Ông mong muốn bộ tiêu chí này phải được tài liệu hoá thành văn bản chính thức để tạo sự thống nhất trong nhận thức. Bộ Tư pháp hoàn toàn có thể đảm nhận nhiệm vụ này và gửi cho tất cả các bộ, ngành để áp dụng. Trên cơ sở đó, các bộ, ngành sẽ tiến hành rà soát và đồng loạt bãi bỏ ngay những quy định không cần thiết, ưu tiên loại bỏ trước để tạo ra chuyển biến nhanh chóng, còn những quy định cần chỉnh sửa thì xử lý dần. Chẳng hạn, điều kiện kinh doanh nào không còn phù hợp thì bỏ ngay, rất nhanh gọn.
Tiếp đến, ông Hiếu đề nghị Hội Luật gia Việt Nam cần chủ động hơn. Với chuyên môn của mình, Hội có thể tập hợp, rà soát và đưa ra danh mục các điều kiện kinh doanh, các quy định bất hợp lý để trình Chính phủ tham khảo. Đây sẽ là một kênh phản biện độc lập, thiết thực, góp phần thúc đẩy cải cách.
Cuối cùng, về cơ chế bền vững, ông Hiếu cho biết ông đã từng nhiều lần phát biểu tại Quốc hội và đến nay vẫn mong muốn Chính phủ tiếp tục duy trì động lực cải cách, để bảo đảm cải cách không chỉ dừng lại ở một giai đoạn nhất thời mà trở thành một dòng chảy lâu dài và thường trực.
THẢO LUẬN MỞ
Các diễn giả chính: TS. Phan Đức Hiếu - Uỷ viên Uỷ ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội; PGS.TS Trần Đình Thiên - thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách của Thủ tướng Chính phủ, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam; Luật sư Trương Thanh Đức - Giám đốc Công ty Luật ANVI; Bà Nguyễn Thị Cẩm Huyên - Giám đốc Pháp chế Ngân hàng OCB.
Người dẫn chương trình: Nhà báo Phạm Quốc Huy
Nhà báo Phạm Quốc Huy: Việc Bộ Chính trị ban hành "tứ trụ nghị quyết", trong đó nổi bật là Nghị quyết 66 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật và Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân, tức là chủ trương, định hướng đã rõ ràng và mạnh mẽ. Nhưng thực tế thì, nhiều điểm nghẽn pháp lý vẫn tồn tại
Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta đang phải sửa một khối lượng rất lớn các văn bản quy phạm pháp luật trong nhiều lĩnh vực. Thách thức của các cơ quan xây dựng pháp luật là rất lớn. Vậy làm sao để trong thời gian ngắn sắp tới, chúng ta sửa đổi và ban hành được một loạt các luật và văn bản dưới luật, nhằm tháo gỡ những điểm nghẽn nêu trên? Xin mời PGS.TS Trần Đình Thiên chia sẻ quan điểm?
PGS.TS Trần Đình Thiên: Nếu chỉ dừng lại ở cách tiếp cận tháo gỡ từng "điểm nghẽn" thì sẽ không giải quyết được tận gốc vấn đề. Điều quan trọng hơn cả là phải thay đổi hệ thống, thiết kế một thể chế mới cho sự phát triển.
Từ khóa "tháo gỡ" cần được nhìn nhận lại. Bởi tháo gỡ chỉ mang tính tạm thời, vẫn giữ nguyên hệ thống cũ và chỉnh sửa từng phần, trong khi chính hệ thống đó đã có vấn đề. Nếu chỉ mải miết "tháo gỡ" thì rốt cuộc vẫn rơi vào bế tắc. Tháo gỡ mãi cũng chết, nhưng không tháo gỡ thì cũng chết.
Để làm rõ, tôi xin dẫn lại câu chuyện hơn chục năm trước ở Bình Phước, khi một lãnh đạo tỉnh từng cam kết "nhổ từng cái đinh" để giải tỏa khó khăn cho doanh nghiệp. Nghe thì hào hùng, nhưng thực tế, nhổ riêng một cái đinh có thể mất hàng chục năm, trong khi "đinh" lại mọc tiếp. Vấn đề không phải là nhổ từng chiếc "đinh", mà là làm sao để "đinh" không mọc ra nữa.
Do đó, cần nhìn nhận vấn đề ở cấp độ hệ thống nghẽn, thay vì chỉ tập trung vào từng "điểm nghẽn" riêng lẻ. Hàng nghìn dự án bị tắc thủ tục, pháp lý với giá trị tài sản lên đến hàng triệu tỷ đồng là minh chứng rõ rệt cho sự ách tắc mang tính phổ biến, mang tính hệ thống. Vì vậy, thể chế chính là điểm nghẽn của các điểm nghẽn. Không tháo gỡ ở đây thì không tháo được chỗ nào khác.
Luật pháp phải thay đổi trên cơ sở coi quyền tài sản tư nhân là nền tảng cốt lõi của kinh tế thị trường. Nhà nước cần đóng vai trò bảo vệ sở hữu tư nhân - nguyên lý cơ bản nhất, thay vì vẫn thiên về bảo vệ tài sản Nhà nước mà chưa coi trọng đúng mức tài sản tư nhân.
Phải khẳng định kinh tế tư nhân phải trở thành động lực chủ đạo. Từ sau Đổi mới, Việt Nam đã lựa chọn kinh tế nhiều thành phần, nhưng suốt 40 năm qua vẫn còn sự e dè với khu vực tư nhân. Tư nhân chính là lực lượng tạo nên động lực phát triển, và luật pháp phải mở ra để khẳng định vị thế đó.
Không chỉ dừng lại ở hiện tại, việc thiết kế luật pháp cần hướng tới tương lai, thay vì chỉ phục vụ cho một hệ thống cũ. Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên công nghệ số và kinh tế xanh, nơi tài sản trí tuệ trở thành loại tài sản quan trọng nhất, đòi hỏi một khung pháp lý phù hợp để bảo vệ. Nếu không chú ý ngay từ bây giờ, 10 năm sau đất nước vẫn mãi loay hoay với đất cát, trong khi thế giới đã đi xa với kinh tế trí tuệ.
Chúng ta phải thiết kế hệ thống luật cho nền kinh tế tương lai - một nền kinh tế dựa trên sở hữu trí tuệ và sáng tạo. Đây mới là cách tiếp cận hệ thống đúng đắn, thay vì chỉ tháo gỡ cục bộ. Nếu không, chúng ta sẽ đánh mất thời cơ phát triển.
Nhà báo Phạm Quốc Huy: Tham dự Tọa đàm của chúng ta ngày hôm nay có Luật sư Trương Thanh Đức - một luật sư giàu kinh nghiệm trong tư vấn pháp lý cho doanh nghiệp.
Chúng ta hoàn toàn thống nhất quan điểm rằng một mặt, hệ thống pháp luật của Việt Nam đang không ngừng hoàn thiện; nhưng mặt khác, vẫn tồn tại không ít quy định chồng chéo, mâu thuẫn hoặc thiếu tính khả thi, khiến doanh nghiệp gặp khó trong quá trình đầu tư - kinh doanh.
Ông đánh giá thế nào về thực trạng xây dựng và thực thi pháp luật hiện nay, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế. Sau khi Nghị quyết 66 và 68 được ban hành, hiệu quả công tác xây dựng và thực thi pháp luật đã được cải thiện đáng kể?
Luật sư Trương Thanh Đức: Đã qua nhiều nhiệm kỳ, qua rất nhiều năm, người dân, doanh nhân, doanh nghiệp đã bị trói, bị ngộp, bị choáng, bị khốn khổ trong rừng luật. Muốn hiểu luật cũng khó, muốn làm đúng cũng khó, muốn an toàn càng khó.
Sau khi có Nghị quyết 66 và Nghị quyết 68, việc xây dựng và thực thi pháp luật đặc có rất nhiều thay đổi cơ bản, thậm chí đã có tính đột phá. Tuy nhiên phải mất nhiều thời gian nữa mới đáp ứng được yêu cầu thực tế. Chúng ta gỡ được cái này lại vướng cái kia, vẫn khó khăn, vẫn vướng mắc. Trong bối cảnh mới, yêu cầu mới, quan điểm mới và để bước vào Kỷ nguyên mới thành công thì việc xây dựng và thực thi pháp luật cần phải làm thật sự đột phá như sau:
Thứ nhất, thực tế đã tăng quyền cho cơ quan chức năng, thì cũng phải tăng quyền cho doanh nghiệp, doanh nhân. Ban hành là quyền của Nhà nước, thì tăng quyền lựa chọn áp dụng pháp luật là quyền của nhân dân.
Thứ hai, miễn giảm trách nhiệm ("ân xá") trong một giai đoạn nhất định (5 - 10 năm gì đó) đối với trường hợp vi phạm nhưng không cố ý, đặc biệt là trong trường hợp có mâu thuẫn, xung đột pháp luật, bao gồm 3 loại: Một là, miễn hoàn toàn việc xử phạt, nhất là xử tội hình sự. Hai là, giảm nhẹ việc xử phạt. Ba là, thay thế việc xử phạt hình sự bằng xử phạt hành chính (đúng với tinh thần Nghị quyết không hình sự hoá quan hệ kinh tế, hành chính);
Thứ ba, việc tăng quyền lựa chọn áp dụng pháp luật và miễn giảm trách nhiệm phải được quy định rõ trong một đạo luật hay Nghị quyết của Quốc hội.
Nhà báo Phạm Quốc Huy: Nghị quyết 66 yêu cầu sự tham gia rộng rãi, thực chất của ngườis, tổ chức, doanh nghiệp trong xây dựng và thi hành pháp luật. Xin hỏi Luật sư Trương Thanh Đức, làm sao để tăng cường sự tham gia của người dân, doanh nghiệp trong quá trình xây dựng pháp luật hiện nay?
Luật sư Trương Thanh Đức: Việc xây dựng và thi hành pháp luật, nhất là pháp luật đầu tư, kinh doanh, rất cần có sự tham gia của người dân, tổ chức, doanh nghiệp một cách rộng rãi, thực chất và hiệu quả. Muốn người dân, doanh nghiệp tham gia thì phải cầu thị, thiện chí, tiếp thu và cũng cần có phương pháp phù hợp thu hút sự quan tâm, hào hứng, tích cực, và cần phải thông qua nhiều kênh.
Mọi ý kiến đều phải được lắng nghe, tôn trọng, tiếp nhận, xử lý và trả lời (riêng hoặc chung). Mọi ý kiến đều cần tiếp thu và đều có thể tiếp thu, kể cả đúng, kể cả sai, kể cả hay, kế cả dở. Đúng, hay thì tiếp thu để xử lý nội dung. Sai, dở thì cũng phải xem lại, tiếp thu về hình thức, kỹ thuật. Ý tưởng lập pháp và kỹ thuật soạn thảo đều rất quan trọng, thậm chí 50 - 50. Những ý kiến hợp lý, đúng đắn, có giá trị thì vô giá. Điều này cần cái tâm của người góp ý và cái tầm của người tiếp thu: Chuyển sai thành đúng, biến dở thành hay, chứ đừng biến hay thành dở, biến đúng thành sai.
Chốt lại, là để giải quyết được điểm nghẽn của điềm nghẽn, để pháp luật đột phá và hiệu quả được như kỳ vọng của Nhà nước, như mong muốn của Nhân dân thì cần "có tâm, có tầm, có tài và có tiền".
Nhà báo Phạm Quốc Huy: Tiếp nối chủ đề này, xin mời ông Phan Đức Hiếu chia sẻ về khó khăn, thách thức xây dựng pháp luật hiện nay. Bản thân Uỷ ban Kinh tế - Tài chính của Quốc hội nói riêng và Quốc hội nói chung thời gian qua đã có các giải pháp mấu chốt gì để thực hiện các Nghị quyết này?
Ông Phan Đức Hiếu: Một là, thông điệp bài trình bày của tôi là, hiện nay công tác xây dựng pháp luật theo đúng phân công, phân cấp, Quốc hội làm gì, Chính phủ làm gì, bộ ngành làm gì?
Thế rồi, đang cải cách thực thi Nghị quyết 66, 68 thì hiện nay Chính phủ đã có chương trình hành động và giao cho các bộ ngành tự rà soát. Sau đó, chọn ra những vấn đề cho rằng là điểm nghẽn và sẽ chỉnh sửa hoặc bãi bỏ theo hai cách. Thông thường, khi một bộ có đề xuất sửa đổi thì được hiểu là đang thực hiện cải cách thủ tục hành chính, góp phần cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh thông qua việc sửa đổi luật.
Đối với Quốc hội, chức năng, nhiệm vụ chính là lập pháp, thẩm tra các dự thảo luật do Chính phủ trình. Quốc hội cũng có quyền tự đề xuất, nhưng trên thực tế, do hạn chế về nguồn lực, nhân lực và điều kiện, việc này là rất khó thực hiện. Bên cạnh đó, Quốc hội còn có chức năng giám sát. Chính phủ làm nghị định theo đề trình của các bộ ngành.
Nếu cứ làm theo cách thức hiện nay thì theo tôi, hiệu quả và tính đột phá sẽ khó đạt được. Anh chị hình dung, sắp tới dù Quốc hội có làm 45 dự án luật thì câu hỏi đặt ra là: đã đủ hay chưa? Và trong số 45 luật đó, việc đáp ứng điều kiện của Nghị quyết 66, 68 sẽ như thế nào?
Vấn đề tôi muốn nhấn mạnh là, nếu chỉ làm theo cách cũ thì khó có thể nhanh, mạnh và hiệu quả. Dĩ nhiên, với các bộ, ngành hay cơ quan liên quan, việc thực hiện như vậy là không sai. Vì họ làm đúng yêu cầu, đúng chỉ đạo, đúng kế hoạch hành động và phân công của Chính phủ. Nhưng điều đó chưa đủ.
Điều mà giới chuyên gia, cộng đồng doanh nghiệp và xã hội kỳ vọng là cùng một công việc đấy, nhưng phải làm mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn và thực chất hơn. Chỉ khi đó mới đạt được hiệu quả như mong muốn.
Trong phạm vi của Quốc hội, ngay từ đầu, những người trực tiếp tham gia xây dựng Nghị quyết 66, 68, trong đó có cá nhân tôi, đã xác định rõ tinh thần phản biện, thẩm tra các dự án luật phải thực sự mạnh mẽ về mặt tư tưởng. Các buổi mà Ủy ban Kinh tế tham vấn là không hạn chế.
Tuy nhiên, với cách làm cũ như vậy thì nó không hiệu quả. Nên mong muốn của tôi là phải có thêm cách làm mới, cố gắng làm thực chất, tích cực và tham vấn cộng đồng doanh nghiệp phải phải tham vấn thực chất, tham vấn có trách nhiệm và cần phải có giải trình.
Như quan điểm của Quốc hội là mọi ý kiến của đại biểu Quốc hội đều phải được giải trình đầy đủ, từng ý kiến. Do đó, nếu các bộ, ngành tăng cường trách nhiệm giải trình và tham vấn, đảm bảo từng ý kiến được trả lời một cách minh bạch, công khai để xã hội và người dân cùng theo dõi, thì đó đã là một bước cải tiến quan trọng đầu tiên.
Nhưng cải tiến thứ hai, tôi muốn Nghị quyết 68, Nghị quyết 66 nhanh đi vào cuộc sống ấy thì tôi rất mong muốn, bây giờ Bộ Tư pháp là cơ quan đầu mối sớm công bố được một bản kết quả rà soát của tất cả các bộ ngành đồng đều về những vướng mắc.
Công bố công khai, tập hợp lại, sau đó tham vấn rộng rãi các chuyên gia, nhà khoa học để xem cái nào là sự thống nhất, cái nào còn thiếu.
Như vậy các bộ ngành, Hội Luật gia, cộng đồng doanh nghiệp, các chuyên gia tham vấn thực chất vào danh sách đó. Đồng thời, với việc sửa luật để có những điểm nghẽn, rào cản có thể làm trong quá trình sửa luật.
Còn lại những luật chưa sửa thì sao? Nếu vướng ở luật hoặc những nghị định mà chưa vào trong danh sách sửa thì theo tôi vẫn phải có một động tác là bãi bỏ hoặc sửa đổi đồng loạt.
Như vậy, bên cạnh các dự án luật và nghị định đã có trong Chương trình xây dựng pháp luật của Chính phủ, Quốc hội, thì tất cả những rào cản, điểm nghẽn chưa được đưa vào chương trình đó cần phải được xử lý theo một cách khác. Giải pháp là ban hành một Nghị quyết hoặc một Nghị định để bãi bỏ đồng loạt các quy định bất hợp lý này. Ít nhất, trước mắt ấy cứ làm được tốt cho tôi là 30% các điều kiện và quy định hiện hành có rào cản. Còn tinh thần ở đây là bãi bỏ hết 100% những thứ gọi là rào cản.
Nếu thực hiện đúng theo tinh thần của nghị quyết 68 là bãi bỏ tất cả những rào cản, điểm nghẽn pháp lý gây cản trở đến hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng tối thiểu 30% hiện hành về mặt số lượng và có hạn đến cuối năm 2025.
Được biết, Bộ Tư pháp đã có danh mục với hàng nghìn rào cản pháp lý. Vấn đề là những rào cản này cần được công bố công khai, đồng loạt, đồng thời tổ chức tham vấn thực chất với người dân, doanh nghiệp và các hiệp hội chuyên ngành như Hội Luật gia, luật sư, ngân hàng, bảo hiểm, cũng như hiệp hội doanh nghiệp trong từng lĩnh vực. Bởi chính họ là những người hiểu rõ nhất đâu là những quy định đang gây khó khăn.
Cách làm nên là kết hợp vừa sửa đổi các luật, nghị định đã nằm trong chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội và Chính phủ; vừa đồng thời bãi bỏ hàng loạt những quy định, rào cản.
Về lâu dài, tôi rất muốn có một cơ quan gọi là giám sát và thúc đẩy thể chế. Giả sử giả sử như mình làm được, đạt được kết quả cuối năm nay theo một số nhiệm vụ Chính phủ giao.
Thì bây giờ phải quay trở lại đánh giá. Đánh giá đảm bảo chất lượng hay không, nó đảm bảo chỉ tiêu, đảm bảo hay không thì ai sẽ là người đánh giá thực chất và khách quan nhất?
Chắc không thể thiếu một cơ quan độc lập, chuyên môn, có chức năng là giám sát và thúc đẩy cải cách thể chế, phải có một cơ quan đủ thẩm quyền. Và thậm chí một số cơ quan họ còn trao thẩm quyền là trình luật luôn.
Nếu các bộ, ngành và cơ quan liên quan còn do dự, chần chừ trong việc trình các phương án cải cách, trong khi cơ quan có thẩm quyền lại chưa được chủ động đề xuất các dự án đó, thì tiến trình cải cách sẽ luôn bị trì hoãn. Muốn thay đổi thực chất và quyết liệt, chúng ta phải tăng cường thêm nhân sự.
Nhà báo Phạm Quốc Huy: Như ông nói thì các doanh nghiệp, các đơn vị, cá nhân muốn đóng góp thì cũng phải có trách nhiệm giải trình?
TS. Phan Đức Hiếu: Tôi rất mong muốn là trong tháng này, tháng sau tôi nhìn thấy các cái danh sách, các điểm nghẽn pháp lý mà các bộ ngành, cơ quan có liên quan đã được giao nhiệm vụ sớm công khai, sớm tham vấn đầy đủ, thực chất danh sách này thì sẽ hiệu quả.
Nhà báo Phạm Quốc Huy: Tại toạ đàm hôm nay có đại diện một ngân hàng thương mại – bà Nguyễn Thị Cẩm Huyên - Giám đốc pháp chế Ngân hàng TMCP Phương Đông (OCB). Ngân hàng thương mại là một dạng doanh nghiệp đặc biệt, có sự tương tác với hệ thống pháp luật với tần suất dày nhất trong nền kinh tế.
Bà Cẩm Huyên có thể chia sẻ về một số vướng mắc nổi bật hiện nay của ngành ngân hàng, và các kỳ vọng, cũng như đề xuất nhằm phát triển bền vững ngành ngân hàng, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp, thúc đẩy nền kinh tế.
Một trong những chủ trương lớn liên quan ngành ngân hàng thời gian qua là Nghị quyết 42 của Quốc hội về xử lý nợ xấu đã được Luật hoá vào tháng 6/2025. Bà có thể cho biết từ đó đến nay, việc xử lý nợ xấu có trở nên thuận lợi hơn, các văn bản dưới luật đã được ban hành một cách có hiệu quả hay chưa, và bản thân bà kỳ vọng gì tiếp theo tại các văn bản dưới luật này?
Bà Nguyễn Thị Cẩm Huyên – Giám đốc pháp chế Ngân hàng TMCP Phương Đông (OCB): Ngân hàng thương mại vốn được coi là một dạng doanh nghiệp đặc biệt, có sự tương tác với hệ thống pháp luật với tần suất dày đặc nhất trong nền kinh tế. Trong những năm gần đây, Nhà nước đã và đang nỗ lực không ngừng trong việc sửa đổi, bổ sung và ban hành mới nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm hoàn thiện khung khổ pháp lý đồng bộ, khả thi, sát thực tế và phù hợp với quy luật thị trường.
Đây là bước đi quan trọng giúp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc do chồng chéo pháp luật, đồng thời vẫn đảm bảo vai trò định hướng, giám sát và kiến tạo của Nhà nước trong việc huy động hiệu quả mọi nguồn lực, tạo động lực phát triển đột phá, phục vụ tăng trưởng kinh tế.
Những thay đổi này là tin vui không chỉ đối với ngành ngân hàng mà còn với cộng đồng doanh nghiệp nói chung, bởi chúng mở ra một môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi và bền vững hơn.
Tuy vậy, nhìn từ thực tiễn hoạt động, ngành ngân hàng vẫn đang gặp phải một số khó khăn về pháp lý. Đơn cử, một số quy định giữa Luật Các tổ chức tín dụng, Bộ luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật Kinh doanh bất động sản… vẫn chưa được đồng bộ, gây ra trở ngại trong quá trình đánh giá các giao dịch và xử lý tài sản bảo đảm, đặc biệt là đối với bất động sản và các dự án.
Bên cạnh đó, khi nhu cầu thị trường phát triển nhanh cùng sự thay đổi liên tục của công nghệ, khung pháp lý về chuyển đổi số như eKYC, chữ ký số, định danh điện tử hay cho vay trực tuyến cần được hoàn thiện nhanh hơn để theo kịp tiến trình số hóa.
Ngoài ra, trong bối cảnh yêu cầu ngày càng cao về phòng chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố và bảo mật dữ liệu cá nhân, việc xây dựng các quy định cụ thể, rõ ràng sẽ giúp giảm chi phí tuân thủ cho cả ngân hàng và doanh nghiệp.
Một điểm nghẽn khác là Việt Nam hiện chưa có hướng dẫn pháp lý thống nhất về tiêu chí "dự án xanh", khiến việc triển khai các gói tín dụng bền vững gặp khó khăn. Do đó, rất cần sớm ban hành các tiêu chí chung về tín dụng xanh, cũng như cơ chế khuyến khích và ưu đãi cho cả doanh nghiệp lẫn ngân hàng trong việc tài trợ cho các dự án năng lượng tái tạo và phát triển bền vững.
Một trong những thay đổi lớn gần đây đối với hệ thống ngân hàng là việc Quốc hội chính thức luật hóa Nghị quyết 42 về xử lý nợ xấu vào tháng 6/2025. Trước đó, đến giữa năm 2024, nợ xấu nội bảng toàn hệ thống đã lên tới khoảng 833.300 tỷ đồng, tương ứng tỷ lệ gần 5% và tăng hơn 10% so với cuối năm 2023.
Trong bối cảnh này, việc Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi, có hiệu lực từ tháng 10/2025, chính thức ghi nhận quyền thu giữ tài sản để xử lý nợ xấu là một bước tiến quan trọng, được các ngân hàng kỳ vọng sẽ giúp quá trình xử lý trở nên minh bạch và hiệu quả hơn.
Điểm tích cực là những nội dung quan trọng từng chỉ áp dụng thí điểm theo Nghị quyết 42 nay đã được đưa vào luật, với cơ chế phối hợp cụ thể từ chính quyền địa phương và lực lượng công an cơ sở, tạo cơ sở pháp lý bền vững hơn để tổ chức tín dụng và các công ty xử lý nợ có căn cứ thực hiện.
Ngoài ra, luật mới cũng mở rộng phạm vi áp dụng, không giới hạn thời điểm phát sinh nợ, cho phép xử lý cả các khoản nợ cũ lẫn mới với một số điều kiện nhất định.
Tuy nhiên, vẫn còn những vướng mắc cần tháo gỡ. Việc xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp có tranh chấp hoặc đang trong quá trình thi hành án vẫn gặp nhiều khó khăn, bởi luật chỉ cho phép thu giữ khi đáp ứng các điều kiện cụ thể.
Bên cạnh đó, khoảng trống pháp lý từ khi Nghị quyết 42 hết hiệu lực cuối năm 2023 cho đến khi luật mới có hiệu lực vào tháng 10/2025 cũng khiến nhiều khoản nợ xấu bị đình trệ trong xử lý, gia tăng tranh chấp và áp lực trích lập dự phòng cho các ngân hàng.
Chính vì vậy, để luật hóa thực sự phát huy hiệu quả, việc ban hành kịp thời các nghị định, thông tư hướng dẫn chi tiết cùng với sự phối hợp chặt chẽ giữa ngân hàng, tòa án, cơ quan thi hành án và các cơ quan quản lý liên quan là điều hết sức cần thiết.
Một vấn đề khác là khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME). Đây là nhóm chiếm hơn 97% tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam, song đặc thù tài sản bảo đảm còn hạn chế khiến họ gặp nhiều khó khăn trong vay vốn ngân hàng.
Những năm gần đây, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng đã có nhiều nỗ lực tháo gỡ, trong đó OCB đã triển khai nhiều giải pháp cụ thể nhằm khơi thông vốn cho SME. Ngân hàng phát triển các sản phẩm tín dụng dựa trên dòng tiền và uy tín giao dịch thay vì chỉ dựa vào thế chấp, đẩy mạnh ứng dụng dữ liệu số và chấm điểm tín dụng từ hóa đơn điện tử, POS, thanh toán online hay dữ liệu dân cư.
Bên cạnh đó, nhiều gói tín dụng chuyên biệt như cho vay chuỗi cung ứng, chiết khấu hóa đơn, tài trợ thương mại được thiết kế để phù hợp nhu cầu vận hành của doanh nghiệp nhỏ. OCB cũng tích cực huy động nguồn vốn quốc tế để tái cấp cho SMEs, trong đó có các khoản vay dành riêng cho doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ hoặc doanh nghiệp trong lĩnh vực xanh, bền vững.
Ngoài hỗ trợ tín dụng, ngân hàng còn cung cấp dịch vụ tư vấn quản trị tài chính và rủi ro, miễn hoặc giảm nhiều loại phí dịch vụ để giảm chi phí gián tiếp cho doanh nghiệp.
Để SMEs có thể tiếp cận vốn thuận lợi hơn, khung pháp lý cho tín dụng chuỗi cung ứng cần sớm hoàn thiện, cho phép ngân hàng dựa trên hợp đồng và hóa đơn thay vì chỉ tài sản thế chấp.
Bên cạnh đó, việc tăng cường chia sẻ dữ liệu doanh nghiệp từ các cơ quan quản lý với ngân hàng sẽ giúp chấm điểm tín dụng minh bạch và nhanh chóng hơn. Ngoài ra, cần đẩy mạnh đơn giản hóa thủ tục pháp lý cho vay vốn điện tử, đồng thời có cơ chế ưu tiên cho tín dụng xanh và chuyển đổi số để SMEs được tiếp cận vốn ưu đãi.
Nhà báo Phạm Quốc Huy: Qua ý kiến của bà Nguyễn Thị Cẩm Huyên thì chúng ta có thể thấy rằng, ngay kể cả các doanh nghiệp lớn và như hệ thống ngân hàng thương mại thì việc tiếp cận một cách kịp thời và đúng bản chất với quy định pháp luật là cực kỳ cần thiết.
Thưa quý vị, trong bối cảnh hệ thống pháp luật liên tục được cập nhật, ban hành nhiều quy định mới, không ít doanh nghiệp nhỏ gặp khó khăn do chưa có bộ phận pháp chế chuyên trách. Điều này đặt ra câu hỏi: Làm thế nào để vừa hạn chế rủi ro pháp lý mà không phát sinh chi phí quá lớn? Hôm nay, tham dự toạ đàm có rất nhiều luật sư, luật gia uy tín. Xin được mời một vị khách mời dưới hội trường chia sẻ quan điểm của mình về câu hỏi này?
Bà Nguyễn Thị Ngọc Anh – Giám đốc Công ty Luật ATA: Tôi là luật sư chuyên tư vấn cho các doanh nghiệp, trong đó có cả doanh nghiệp SMEs. Từ những chia sẻ của các bậc tiền bối, tôi thấy rằng Nghị quyết 68 và Nghị quyết 66 của Bộ Chính trị, tuy chưa thật sự đáp ứng kỳ vọng của một số người đã nhiều năm kêu gọi thay đổi, nhưng với chúng tôi – những luật sư thế hệ sau – đây thực sự là một bước đột phá.
Sau khi có hai nghị quyết này, các cơ quan từ Quốc hội, Chính phủ đến các bộ ngành đã hoạt động rất tích cực, ngày đêm ban hành, sửa đổi, bổ sung văn bản pháp luật. Tất nhiên không thể tháo gỡ hết mọi điểm nghẽn ngay lập tức.
Với các doanh nghiệp lớn, như ngân hàng, thường có đội ngũ pháp lý mạnh, không chỉ cập nhật văn bản mới mà còn được tham gia quá trình xây dựng, góp ý chính sách, thậm chí tạo ra thay đổi phù hợp nhu cầu phát triển. Ngược lại, doanh nghiệp SMEs khó khăn hơn rất nhiều. Họ chủ yếu chỉ nắm bắt và áp dụng. Do quy mô nhỏ, hạn chế về vốn và nhân lực, đặc biệt với doanh nghiệp khởi nghiệp, việc duy trì một bộ phận pháp chế chuyên biệt gần như không khả thi.
Với tư cách luật sư tư vấn, tôi có vài khuyến nghị cho doanh nghiệp SMEs:
Thứ nhất, cần có hệ thống quản trị pháp lý thường xuyên. Không nhất thiết phải lập phòng pháp chế, mà có thể tận dụng hai bộ phận luôn tồn tại ở mọi doanh nghiệp như sau:
Bộ phận Kế toán: Theo dõi và lưu trữ chứng từ, tài liệu, hợp đồng liên quan đến giao dịch, nguồn thu, khoản chi; Bộ phận Hành chính - nhân sự: Theo dõi và lưu trữ hồ sơ pháp lý doanh nghiệp, hồ sơ nhân sự, hồ sơ cổ đông và thành viên góp vốn.
Nếu làm tốt việc quản trị, lưu trữ và thêm cảnh báo rủi ro, thì đó đã là cách kiểm soát nội bộ hiệu quả.
Thứ hai, thường xuyên theo dõi các kênh cung cấp văn bản pháp lý miễn phí như Thư viện Pháp luật, Luật Việt Nam, Cổng thông tin Chính phủ. Tuy nhiên, các kênh này thường chỉ đăng văn bản mà chưa phân tích sâu. Do đó, doanh nghiệp có thể tham khảo thêm các kênh chính thức của công ty luật, nơi thường xuyên có phân tích và chuyên đề pháp lý hàng tuần.
Ví dụ, tại ATA, chúng tôi thường xuyên cung cấp văn bản và chuyên đề pháp lý. Như chị Huyên có nói, một tháng không đọc luật đã thành "người tối cổ", còn với chúng tôi, không đọc hàng ngày đã lạc hậu. Ban đầu các trợ lý than phiền mệt, nhưng tôi luôn nhấn mạnh, nếu chúng ta không cập nhật, không thể tư vấn hay áp dụng vào chính hoạt động của mình, chứ chưa nói đến tư vấn cho khách hàng.
Thứ ba, trong những trường hợp nội bộ không thể tự xử lý, doanh nghiệp có thể sử dụng dịch vụ pháp lý thường xuyên – giống như "phòng pháp chế thuê ngoài". Luật sư tư vấn thường có nhiều kinh nghiệm hơn pháp chế nội bộ, giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí mà vẫn hiệu quả.
Nhà báo Phạm Quốc Huy: Trong bối cảnh Nghị quyết 66 nhấn mạnh xây dựng văn hóa thượng tôn pháp luật và Nghị quyết 68 đưa ra cơ chế "luồng xanh, luồng đỏ" nhằm siết chặt kỷ luật tuân thủ, theo ông Phan Đức Hiếu, doanh nghiệp và các hiệp hội cần làm gì để vượt qua tâm lý "ngại góp ý", phản ánh mạnh mẽ những rào cản pháp lý mang tính hệ thống tới Quốc hội, đồng thời chuẩn bị thích ứng với môi trường cạnh tranh gay gắt khi các rào cản bảo hộ bị xóa bỏ, kể cả việc tính toán chi phí tuân thủ pháp luật như một phần thường xuyên trong hoạt động kinh doanh?
TS. Phan Đức Hiếu: Nói rộng hơn về Nghị quyết 68, vai trò của các bên và tác động của Nghị quyết này, theo tôi là vẫn phải kiên trì, mạnh mẽ hơn trong việc phản biện chính sách. Có thể một lần chưa được, hai lần chưa được, nhưng nhất định phải kiên trì.
Đặc biệt, lúc này cần nhất là báo cáo đại biểu Quốc hội phản ánh mạnh mẽ, thẳng thắn những vướng mắc khách quan từ góc nhìn doanh nghiệp, hiệp hội. Các kiến nghị nên gửi qua nhiều kênh, kể cả Quốc hội, để Quốc hội nắm rõ. Bởi nhiều khi chúng tôi trong phạm vi quyền hạn không xử lý được, nhưng khi tham gia thẩm tra, góp ý cho các luật, nhờ có thông tin từ doanh nghiệp, chúng tôi có thể hỗ trợ theo cách đó.
Thứ hai, tôi rất mong các hiệp hội chuyên môn như Hội Luật gia, Hội Luật sư… sớm có danh mục kiến nghị mang tính hệ thống. Ví dụ, trong vòng hai tháng, có thể tập hợp khoảng 2.000 kiến nghị từ giới luật sư, chia theo lĩnh vực, chỉ rõ những rào cản pháp lý lớn nhất, thay vì các ý kiến vụn vặt, nhỏ lẻ.
Cũng cần thông tin với doanh nghiệp về một thực tế: trước đây thường lười góp ý pháp luật, vì nghĩ rằng luật ban hành rồi vẫn có thể tìm cách thực hiện khác, chấp nhận rủi ro pháp lý. Nhưng bây giờ, Nghị quyết 66 đặt ra yêu cầu xây dựng văn hóa thượng tôn pháp luật. Đồng thời, Nghị quyết 68 đưa ra cơ chế giám sát như "luồng xanh, luồng đỏ" trong thanh tra, kiểm tra. Khi buộc phải tuân thủ nghiêm minh, doanh nghiệp sẽ có động lực phản biện mạnh mẽ hơn. Trước đây nhiều khi ta không phản biện đến cùng, nhưng nay không còn cách nào khác ngoài việc tuân thủ, nên càng cần phản biện để luật tốt hơn.
Thứ ba, trong tương lai, cần nhìn nhận rằng cải cách thể chế nếu thực hiện đúng mục tiêu, môi trường kinh doanh sẽ thông thoáng, dễ dàng hơn, đồng nghĩa cạnh tranh gay gắt hơn. Trước đây nhiều điều kiện kinh doanh vô hình là rào cản thể chế, vô tình tạo ra sự bảo hộ độc quyền. Khi rào cản đó bị xóa bỏ, doanh nghiệp mới dễ dàng gia nhập thị trường, tạo áp lực cạnh tranh lớn. Doanh nghiệp nào không đổi mới, không thay đổi thì nguy cơ đào thải rất cao. Ngược lại, đây là cơ hội cho doanh nghiệp mới, có tư duy mới, nguồn lực mới, vì lợi ích khách hàng mà vươn lên.
Doanh nghiệp cũng cần thay đổi tư duy, nâng cao trách nhiệm và tính toán chi phí tuân thủ pháp luật như một phần thường xuyên trong hoạt động kinh doanh, kể cả thuê dịch vụ pháp lý chuyên nghiệp, chứ không phải chỉ tìm đến khi gặp rủi ro.
Nhà báo Phạm Quốc Huy: Kính thưa quý vị, sau hơn 2 giờ trao đổi thẳng thắn và sâu sắc, chúng ta đã cùng lắng nghe nhiều ý kiến đa chiều, từ góc độ kinh tế vĩ mô, thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp, quan điểm pháp lý, đến góc nhìn của cơ quan quản lý Nhà nước.
Có thể thấy rằng, những "điểm nghẽn" pháp lý không chỉ là câu chuyện kỹ thuật lập pháp, mà đã trực tiếp trở thành rào cản trong sản xuất – kinh doanh, ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh và sức bật của nền kinh tế. Tuy nhiên, qua tọa đàm hôm nay, chúng ta cũng nhìn thấy rõ hướng đi: Cần một hệ thống pháp luật đồng bộ, ổn định, khả thi. Cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và cộng đồng doanh nghiệp.
Và đặc biệt, cần biến quyết tâm chính trị trong Nghị quyết 66 và 68 thành hành động cụ thể, mạnh mẽ hơn nữa.
Thay mặt Ban Tổ chức, tôi xin trân trọng cảm ơn các diễn giả đã dành thời gian tham dự và chia sẻ nhiều ý kiến tâm huyết, thực tiễn. Cảm ơn quý vị đại biểu, quý vị khán giả đã theo dõi, đóng góp cho buổi tọa đàm. Các ý kiến trao đổi, chia sẻ của quý vị ngày hôm nay sẽ được Tạp chí Đời sống và Pháp luật/ Người Đưa Tin Pháp luật tổng hợp, biên tập và đăng tải trong Chuyên đề đặc biệt xuất bản vào ngày 9/10 sắp tới.
Chúng tôi hy vọng những kiến nghị hôm nay sẽ tiếp tục được lan toả, trở thành cơ sở tham khảo hữu ích cho việc xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật trong thời gian tới, qua đó tạo không gian phát triển thuận lợi hơn cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.
Xin chúc quý vị sức khỏe, thành công và hẹn gặp lại trong các chương trình tiếp theo của Tạp chí Đời sống & Pháp luật/ Tạp chí Người Đưa Tin Pháp luật.
Xin trân trọng cảm ơn và xin kính chào!