Theo GS Nguyễn Minh Thuyết, Tổng chủ biên chương trình giáo dục phổ thông mới, nhận định dự thảo này rất cần thiết trong bối cảnh nhiều tổ chức, cá nhân tham gia biên soạn sách giáo khoa.
Cũng theo GS Nguyễn Minh Thuyết, dự thảo mới về chính tả chỉ có 3 nội dung chính: Đó là quy định về cách viết tên riêng, quy định về cách viết thuật ngữ và một số quy định khác.
Cách viết tên riêng nước ngoài thay đổi
Tên riêng ở đây gồm tên người; tên địa lý; tên các tổ chức, đơn vị, danh hiệu, giải thưởng, lễ tết… Cách viết tên riêng Việt Nam không thay đổi so với quy định hiện hành của Bộ GD&ĐT. Cách viết tên riêng nước ngoài có một số điểm mới.
Quy định mới về cách viết tên riêng nước ngoài: Những tên riêng nước ngoài được dịch nghĩa hoặc phiên âm qua âm Hán Việt mà đã quen dùng thì giữ nguyên và viết hoa giống như cách viết tên riêng tiếng Việt, ví dụ: Đại Tây Dương, Mỹ, Thượng Hải, Đỗ Phủ…
Các trường hợp còn lại, có ba cách viết. Một là viết nguyên dạng nếu đó là tên viết bằng chữ Latin, ví dụ: Albert Einstein, Thomas Edison, Paris... Hai là, chuyển các ký hiệu của chữ viết đó sang chữ Latin đối với những chữ khó viết nguyên dạng, ví dụ: Volga, Moskva, Saint Petersburg... Ba là viết như cách viết trong tiếng Anh đối với trường hợp không chuyển tự được, ví dụ: Tokyo, Nile, Fuzhou...
Đối với những tên riêng liên quan đến nhiều nước thì dùng tên gọi phổ biến nhất hoặc tên phù hợp với ngữ cảnh cụ thể. Trường hợp tên riêng đã phổ dụng quốc tế thì giữ cách viết thông dụng, không viết như nguyên ngữ, ví dụ tên nước có thủ đô là Budapest được viết là của Hungary, không viết là Magyarország.
Những quy định này giống trong Quyết định 240 năm 1984 của Bộ Giáo dục về chính tả và thuật ngữ tiếng Việt trong sách giáo khoa. Theo GS Thuyết, việc áp dụng quy định này có lợi so với cách phiên âm có gạch nối, giúp học sinh tiện tra cứu tài liệu, hay giao dịch bằng tiếng nước ngoài. Quy định này cũng phù hợp với một thực tế là theo chương trình giáo dục mới, học sinh sẽ được học ngoại ngữ từ lớp 3.
Quy định cách viết thuật ngữ
Theo dự kiến của ban soạn thảo, những thuật ngữ tiếng Việt sẵn có hoặc dịch sang tiếng Việt dễ hiểu thì sử dụng các thuật ngữ này, ví dụ các chất vàng, bạc, đồng; hình tam giác, hình vuông, hình chữ nhật, hình bình hành...
Đối với những thuật ngữ có tính hệ thống, có tính sản sinh cao (tạo ra nhiều thuật ngữ cùng gốc) thì viết theo tên nguyên dạng và phổ biến trong ngành khoa học đó. Giáo sư Thuyết phân tích rằng: “Viết như thế cũng là để người đọc tiện tra cứu tài liệu và giao dịch bằng tiếng nước ngoài. Hãy tưởng tượng, nếu học sinh Việt Nam chỉ quen với tên các chất hóa học dưới hình thức phiên âm thì khi tham dự các kì thi quốc tế về khoa học, các em sẽ lúng túng như thế nào”.
Cách viết chữ "i" hay "y" sau các phụ âm h, k, l, m, s, t trong những âm tiết không có âm cuối dự kiến được giữ nguyên như quy định đã có từ năm 1980 của Bộ Giáo dục và Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam để tránh làm xáo trộn thói quen đã hình thành sau gần 40 năm áp dụng, ví dụ: viết là "bác sĩ", không viết "bác sỹ"; viết là "tỉ lệ", chứ không viết là "tỷ lệ".
Vị trí đặt dấu thanh: Dự thảo quy định đặt dấu thanh vào âm chính. Điều này phù hợp với kết quả phân tích ngôn ngữ học là trong tiếng Việt, thanh điệu bao giờ cũng rơi vào âm chính. Trường hợp âm chính được thể hiện bằng một chữ cái, dấu thanh được đặt trên hoặc dưới chữ cái đó, ví dụ: nhà, vịt, hòa (trong tiếng "hoà", dấu thanh đặt trên âm chính là "a", "o" chỉ là âm đệm). Trường hợp âm chính được thể hiện bằng hai chữ cái, thì:
Đối với các ký hiệu "ia", "ua", "ưa", dấu thanh đặt trên hoặc dưới chữ cái thứ nhất, ví dụ: bìa, lụa, lửa…
Đối với các ký hiệu "iê", "yê", "uô", "ươ", dấu thanh đặt trên hoặc dưới chữ cái thứ hai. Ví dụ: biển, thuyền, nhuộm, được.
P.V (Tổng hợp)