Theo nghiên cứu của Cao đẳng Y khoa Pennsylvania (PCM), hầu hết các trường hợp được báo cáo là cấy ghép vú. Đây là thủ thuật khá phổ biến từ những năm 90 ở thế kỷ trước, thông qua vật liệu độn hay còn gọi là túi ngực nhám (textured implant) chứ không phải vật liệu mịn. Chính kết cấu túi ngực nhám là thủ phạm làm viêm nhiễm các mô xung quanh dẫn đến ung thư.
FDA đã bắt đầu công khai số trường hợp ung thư tại Mỹ và các nước khác vào năm 2011 khi họ xác định được mối liên quan giữa nâng ngực và ung thư.
Năm 2017, số ca ung thư sau nâng ngực đã tăng từ 359 ca lên 414 ca với số trường hợp tử vong là 9.
Theo nghiên cứu của PCM, việc nâng ngực sẽ tạo ra bóng tối trên phim chụp X-quang, điều này có thể gây cản trở đọc phim, phát hiện các khối u vú. Kết quả, phát hiện sớm những khối u rất dễ bị bỏ sót, giảm cơ hội sống sót cho người bệnh. Nếu phát hiện sớm, u lymphoma có thể được chữa khỏi bằng cách loại bỏ vật liệu độn và mô sẹo quanh cấy ghép. Trường hợp nặng hơn, có thể phải hóa trị và xạ trị.
Biểu hiện chính của dạng ung thư này là sưng nề quanh túi nâng ngực, thường gặp sau 2-28 năm nâng ngực.
FDA cho biết đối với những phụ nữ không có triệu chứng này thì không cần thiết phải đi khám sàng lọc hay tháo túi nâng.
Trước đó, năm 2015, cơ quan sức khỏe Pháp đã đưa ra đề xuất cảnh báo nguy cơ sức khỏe đối với tất cả các loại túi nâng ngực sau khi Viện Ung thư quốc gia nước này tuyên bố: “Có mối liên quan rõ ràng giữa nâng ngực và bệnh BIA-ALCL”.
Vĩ Thanh (TH)