Diendanphapluat - Tin tức pháp luật 24h, thời sự mới nhất, nóng nhất

Hành vi phát tán hình ảnh, thông tin cá nhân của người khác lên mạng để siết nợ bị xử phạt như thế nào?

Hành vi phát tán hình ảnh, thông tin cá nhân của người khác lên mạng để siết nợ bị xử phạt như thế nào?
Thời gian vừa qua, tình trạng chủ nợ phát tán hình ảnh kèm theo thông tin cá nhân của người vay tiền lên mạng xã hội nhằm mục đích siết nợ ngày càng trở nên phổ biến. Hành động đe doạ, khủng bố, bôi nhọ người khác qua mạng xã hội khi đòi nợ là hành vi tiềm ẩn nhiều rủi ro, gây nguy hiểm cho xã hội. Vậy đối với hành vi này, pháp luật quy định xử phạt như thế nào?

Hiện nay, việc vay tiền có thể thoả thuận bằng nhiều hình thức khác nhau như vay tiền bằng miệng, làm giấy viết tay hoặc ký kết hợp đồng có chữ ký của cả hai bên. Ngoài ra, người vay còn có thể vay tiền thông qua các phương tiện điện tử, chiếu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử. Tuy nhiên, khi các thoả thuận vay tiền không được thực hiện đúng, bên vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ sẽ dẫn đến mâu thuẫn, xung đột lợi ích phát sinh. Thay vì bên cho vay cần phải làm đúng các thủ tục pháp lý để yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bảo vệ lợi ích của mình khi bị xâm hại thì có nhiều trường hợp lại chọn đòi nợ theo cách dùng hình ảnh, thông tin cá nhân của con nợ đăng tải trên các trang mạng . Thông tin cá nhân mà các đối tượng cho vay phát tán là những thông tin đủ để xác định chính xác danh tính một cá nhân, bao gồm: Họ tên, ngày sinh, nghề nghiệp, chức danh, địa chỉ liên hệ, địa chỉ email, số , số căn cước công dân, số hộ chiếu,… 

Hành vi phát tán hình ảnh, thông tin cá nhân của người khác lên mạng để siết nợ bị xử phạt như thế nào?

Hành vi phát tán hình ảnh, thông tin cá nhân của người khác lên mạng để siết nợ bị xử phạt như thế nào?
Những hình ảnh, thông tin cá nhân của "con nợ" bị phát tán, lan truyền trên . Ảnh minh họa.

Thời gian gần đây, việc chủ nợ là những công ty tài chính không có uy tín hoặc cá nhân cho vay lãi suất cao tự ý lấy ảnh của con nợ, đăng ảnh người đó lên các trang mạng xã hội như , Zalo,… nhằm gây áp lực, ép buộc người vay phải trả nợ có chiều hướng gia tăng. Nạn nhân trong những trường hợp này thậm chí có thể không phải người vay. Họ có thể là người thân, bạn bè, đồng nghiệp của người vay. Bởi khi vay tiền qua app hoặc qua công ty tài chính, nhiều người phải cung cấp số điện thoại, thông tin của người thân, bạn bè,… để tham chiếu. Đến khi người vay không trả được nợ, các app hoặc công ty tài chính sẽ đòi nợ từ những người đã được cung cấp thông tin. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến việc nhiều người không vay nhưng liên tục bị đòi nợ, thậm chí là bôi nhọ bằng cách ghép ảnh, video đăng lên mạng xã hội, hòng ép người này phải nhắc nhở, thậm chí trả nợ thay cho người vay. 

Hành động đe doạ, khủng bố, bôi nhọ người khác qua mạng xã hội khi đòi nợ là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền hình ảnh của người vay. Việc làm này không những xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp của cá nhân mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình trật tự an toàn xã hội.

Vậy hành vi đăng thông tin, hình ảnh của “con nợ” lên mạng xã hội có phải là hành vi vi phạm pháp luật hay không? Liên quan đến vấn đề trên, Luật sư Lê Hoàng Phúc An - Hệ thống dịch vụ pháp lý Luật sư X cho biết: “Đầu tiên, chúng ta phải nhận thức được pháp luật quy định về quyền hình ảnh của cá nhân như thế nào? Điều 32 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định rất rõ, ghi nhận cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình, điều đó có nghĩa rằng, việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý, việc sử dụng hình ảnh của người khác vì mục đích thương mại thì phải trả thù lao cho người có hình ảnh, nếu không có thỏa thuận khác. Chính vì vậy, khi ai đó muốn sử dụng hình ảnh thì bắt buộc phải được người trong bức ảnh cho phép. Nên, việc chủ nợ tự ý lấy ảnh của con nợ đăng lên các trang mạng xã hội như Facebook, Instagram, Zalo,… nhằm ép buộc, gây áp lực cho người vay phải trả nợ thì đều là hành vi vi phạm pháp luật và xâm phạm trực tiếp đến quyền hình ảnh của người vay”.

Hành vi phát tán hình ảnh, thông tin cá nhân của người khác lên mạng để siết nợ bị xử phạt như thế nào?
Luật sư Lê Hoàng Phúc An - Hệ thống dịch vụ pháp lý Luật sư X.

Luật sư An thông tin thêm, trường hợp người bị đăng hình ảnh là người nợ tiền thì hành vi của người đăng hình ảnh lên mạng xã hội có thể bị xử lý theo quy định tại Điều 155 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về tội làm nhục người khác với hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác. Trường hợp người bị đăng hình ảnh lên mạng xã hội không phải là người vay tiền mà bị bịa đặt thông tin thì người thực hiện hành vi vi phạm có thể bị xử lý hình sự về tội vu khống theo quy định tại Điều 156 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017) với hành vi bịa đặt/lan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.

Điều 155 BLHS. Tội làm nhục người khác:
1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Đối với 02 người trở lên;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
d) Đối với người đang thi hành công vụ;
đ) Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình;
e) Sử dụng mạng hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;
g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:
a) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên;
b) Làm nạn nhân tự sát.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Điều 156. Tội vu khống:
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;
b) Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Đối với 02 người trở lên;
d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình;
đ) Đối với người đang thi hành công vụ;
e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;
g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%;
h) Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Vì động cơ đê hèn;
b) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên;
c) Làm nạn nhân tự sát.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Diễn đàn Pháp luật sẽ tiếp tục thông tin.

Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác

Đường dây nóng: 0878 443 344

3.8 29 5 Nhấn vào đây để đánh giá
Logo PhapLuatNet Xác thực thông tin của bạn để gửi bình luận
Họ tên
Email
 
0.36146 sec| 667.234 kb