Thế chấp tài sản là một trong các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Khi thế chấp tài sản, khoản 8 Điều 320 Bộ luật Dân sự quy định:
Không được bán, thay thế, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 321 của Bộ luật này.
Trong đó, khoản 4, khoản 5 Điều 321 Bộ luật Dân sự nêu rõ, hàng hoá luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh sẽ được:
- Bán, trao đổi, tặng cho nếu được bên nhận thế chấp đồng ý hoặc theo quy định của Luật.
- Cho thuê, cho mượn nhưng phải thông báo cho bên thuê, bên mượn và bên nhận thế chấp.
Điều 90 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định nếu người phải thi hành án không có tài sản khác hoặc có nhưng không đủ để thi hành án thì tài sản thế chấp sẽ bị kê biên, xử lý nếu giá trị của tài sản thế chấp này lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm cộng thêm chi phí cưỡng chế thi hành án.
Tuy nhiên, nếu kê biên, thi hành án tài sản đang thế chấp tại ngân hàng thì ngân hàng phải được Chấp hành viên thông báo ngay về việc kê biên, xử lý thi hành án.
Trong trường hợp này, khi bán tài sản hoặc xử lý tài sản đang thế chấp tại ngân hàng để đảm bảo thi hành một nghĩa vụ cụ thể thì số tiền nhận được phải được ưu tiên thanh toán cho ngân hàng sau khi trừ đi án phí của bản án hoặc quyết định đó cùng với chi phí cưỡng chế. Đặc biệt, nếu ngân hàng không phải là người được thi hành án thì ngân hàng sẽ được ưu tiên thanh toán trước khi thanh toán các khoản khác (căn cứ khoản 20 Điều 1 Luật sửa đổi Luật Thi hành án dân sự năm 2014).
Như vậy, có thể thấy, tài sản đang thế chấp hoàn toàn có thể được sử dụng để kê biên, thi hành án nếu người bị thi hành án không có tài sản khác hoặc tài sản của người này không đủ để thi hành án và giá trị của tài sản thế chấp lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án.